Lớp 9

Phân tích bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy

Phân tích bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy mang tới dàn ý chi tiết, cùng 20 bài phân tích ngắn gọn, giúp các em học sinh lớp 9 có thêm nhiều vốn từ để hoàn thiện bài viết của mình. Nhờ đó, sẽ ngày càng học tốt môn Văn 9 hơn.

Ánh trăng

Bạn đang xem: Phân tích bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy

Bài thơ Ánh trăng ca ngợi thiên nhiên tươi đẹp, ánh trăng sáng gắn bó với người lính trong suốt những năm tháng trên chiến trường. Với 20 bài phân tích Ánh trăng ngắn gọn trong bài viết dưới đây của THPT Nguyễn Đình Chiểu sẽ giúp các em hiểu sâu sắc hơn:

Dàn ý phân tích bài thơ Ánh Trăng 

I. Mở bài:

– Giới thiệu về tác phẩm Ánh trăng

Nguyễn Duy là một nhà thơ nổi tiếng và đi đầu trong công cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ. thơ văn của ông gần gũi với cuộc sống, mang hương vị thân thương, giản dị và đằm thắm. một trong những tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Duy là tác phẩm Ánh trăng, tác phẩm rất đỗi gần gũi và giản dị. tác phẩm đã mang lại cho chúng ta cảm giác chân thực và vô cùng sâu sắc.

II. Thân bài:

– Phân tích bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy

1. Vầng trăng trong quá khứ:

  • Tác giả nhớ đến kỉ niệm của mình với trăng lúc nhỏ: gắn bó với đồng, với sông, với bể,…
  • Tác giả nhớ đến hồi khi chiến tranh mình và trăng đã ở trong rừng cùng
  • Tình cảm gắn bó sâu sắc và thân thiết
  • Trăng như bạn thân tình, người bạn tri kỉ đối với tác giả

2. Vầng trăng của hiện tại:

  • Ở hiện tại thì trăng như một người dưng qua đường, không quen biết, không rõ ràng trăng như người xa lạ, không quen biết, không từng gặp con người bội bạc, thờ ơ và không thân thiết với thẳng như trước

3. Cảm xúc của tác giả về trăng với con người:

  • Tâm trạng buồn tủi của tác giả nhớ trăng kỉ niệm, nhớ trăng xưa tác giả cảm thấy cuộc sống thay đổi thì tình cảm cũng thay đổi theo cảm nhận về một quá khứ đẹp, một kỉ niệm sâu sắc với trăng

II. Kết bài:

– Nêu cảm nhận của em về tác phẩm ánh trăng của Nguyễn Duy

Ví dụ:

Hình ảnh ánh trăng trong tác phẩm là một hình ảnh hết sức chân thực và sâu sắc. qua những kỉ niệm của tác giả về trăng và những biểu hiện của hiện tại cho chúng ta thấy được sự thật về con người, khi cuộc sống đầy đủ thì người ta lại quên đi những khổ sở, khó khăn lúc trước.

Phân tích bài thơ Ánh trăng ngắn gọn

Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước. Thế hệ này từng trải qua bao thử thách, gian khổ của chiến tranh, chứng kiến bao hi sinh lớn lao của đồng đội nói riêng và nhân dân ta nói chung trong cuộc chiến. Bài thơ “Ánh trăng” được Nguyễn Duy sáng tác năm 1978, ba năm sau ngày giải phóng miền Nam 1975, là để giãi bày những cảm xúc và suy tư của mình trước thực tế có người còn ghi nhớ những mất mát hi sinh năm xưa, có người lại lãng quên quá khứ.

Cái hay của bài thơ này là câu chuyện đời thường được kể bằng những lời thơ giản dị, mộc mạc mà chứa đựng tình cảm, tư tưởng sâu xa. Câu chuyện về mối quan hệ giữa nhà thơ và vầng trăng diễn ra như sau: Hồi nhỏ sống ở làng quê ven biển và hồi chiến tranh sống ở rừng thì vầng trăng là tri kỉ, gần gũi, thân thiết:

Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với biển
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỷ

Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa.

Hồi nhỏ là hồi còn bé thơ, còn sống với làng quê với trăng sáng. Lúc ấy con người hồn nhiên, chưa toan tính ddieuf gì. Trang là một phần của thiên nhiên gắn kết với cuộc sống con người. Trang đến trang đi mang theo nhiều điều mơ ước, chứa đựng biết bao tâm tư tình cảm. Trăng với người như hình với bóng, không sao xa rời.

Những năm tháng gian khổ, ác liệt thời chiến tranh, “vầng trăng thành tri kỉ”, lúc nào cũng kề cận, soi bước hành quân, soi trong giấc ngủ. Nghệ thuật nhân hóa đặc sắc, trăng là người bạn thân thiết, tri âm tri kỉ, là đồng chí cùng chia sẻ những vui buồn trong chiến trận với người lính, của nhà thơ.

Hành quân giữa đêm, trên những nẻo đường chông gai ra mặt trận, những phiên gác giữa rừng khuya lạnh lẽo, những tối nằm yên giấc dưới màn trời đen đặc, người lính đều có vầng trăng bên cạnh. Trăng ở bên, bầu bạn, cùng trải qua bao gian khổ của cuộc sống chiến đấu, cùng chia ngọt sẻ bùi,đồng cam cộng khổ; cùng hân hoan trong niềm vui thắng trận, cung xao xuyến, bồn chồn, khắc khoải mỗi khi người lính nhớ nhà, nhớ quê…

Trăng đã cùng con người vượt qua biết bao gian nan, vào sinh ra tử. Bởi thế, người lính cảm động biết bao, tự hứa với lòng “không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa” ấy. Đến khi chiến tranh kết thúc, được về sống ở thành phố, cuộc sống thay đổi khiến con người cũng thay đổi:

Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường

Cuộc sống tiện nghi, đầy đủ, khác xa với những tháng ngày trước đó đã khiến con người quên hẳn người tri kỉ, người bạn chân thành năm xưa. Giờ đây, vầng trăng đi qua ngõ lạnh lùng và xa lạ như người dưng qua đường. Vầng trăng vẫn tròn đầy, vẫn thủy chung tình nghĩa, nhưng con người đã quên trăng, hờ hững, lạnh nhạt, dửng dưng đến vô tình. Vầng trăng giờ đây bỗng trở thành người xa lạ, chẳng còn ai nhớ, chẳng còn ai hay biết.

Sự cố mất điện khôi phục lại biết bao kỉ niệm, khiến con người đối diện lại với hoàn cảnh tương tự của năm xưa, vầng trăng sáng xuất hiện đánh thức kí ức và khiến con người thức tỉnh, nhận ra lỗi lầm của mình:

Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn.

Con người đối diện với vầng trăng trong một tình huống bất ngờ. Chính cái bất ngờ ấy đưa con người sống thực với chính mình, sống thực với nguồn cội sự sống. Giọt nước mắt rưng rưng trên khóe mắt vừa là sự cảm động sau xa vừa là niềm tiếc hận bẽ bàng, tận cùng của đau xót:

Ngửa mặt lên nhìn mặt
Có cái gì rưng rưng
Như là đồng là bể
Như là sông là rừng.

‘‘Ngửa mặt lên nhìn mặt” có nghĩa là nhìn lại mặt mình và thấy mình có lỗi, mình đã thành con người khác, con người đã quên đi những năm tháng gian lao mà tình nghĩa, quên đi những mất mát, hi sinh,… Những giọt nước mắt cho thấy sự thức tỉnh và hối lỗi của nhà thơ. Thực ra, có thể hiểu là “lòng rưng rưng “chứ không phải rưng rưng”, những giọt nước mắt trong sâu thẳm lòng người có sức lay động nhiều hơn những giọt nước mắt trên bờ mi.

Và nhà thơ đã “giật mình”dù trăng phăng phắc”. Người bạn tri kỉ ấy không nói, mà vẻ đẹp của người tri kỉ đã làm nhà thơ bừng tỉnh ngộ. Người ta có thể thấy qua “ trăng” những gương mặt người tri âm xưa. Với người này, đó có thể là hình bóng của thời bé dại. Với người khác, đó có thể là hình dáng của tháng năm êm đềm hạnh phúc đã qua. Riêng với nhà thơ, đó chính là gương mặt đồng đội trong những tháng năm đạn bom khốc liệt.

Nhà thơ “giật mình” trước sự suy thoái về đạo đức, về lối sống của xã hội, trong đó có bản thân mình: có đèn điện, quên vầng trăng; có hoà bình, quên quá khứ chiến tranh. Vì vậy, lời tự thú chân tình của tác giả chính là lời nhắc nhở về thái độ, tình cảm đối với quá khứ gian lao, tình nghĩa và đối với thiên nhiên, đất nước bình dị, thân thương.

Cùng với nhạc phẩm “Bài ca không quên” của nhạc sĩ Phạm Minh Tuấn, thi phẩm “Ánh trăng” của nhà thơ Nguyễn Duy gợi nhắc lẽ sống “ uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thuỷ chung – truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Chắc chắn rằng, mỗi người chúng ta đều có những lí do rất riêng để lí giải vì sao mình lãng quên một điều thiêng liêng nào đó; xin hãy thành tâm suy nghĩ và biết “ giật thức tỉnh khi đọc bài thơ này. Đó chính là giá trị nhận thức mà văn học mang lại.

Với giọng điệu tâm tình tự nhiên, hình ảnh giàu tính biểu cảm, Ánh trăng của Nguyễn Duy như một lời tự nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu. Bài thơ có ý nghĩa gợi nhắc, củng cố ở người đọc thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân tình thủy chung cùng quá khứ.

Phân tích Ánh trăng – Mẫu 1

Bài thơ “Ánh trăng” được Nguyễn Duy sáng tác năm 1978 và được đưa vào tập thơ “Ánh trăng. Tập này đã được tặng giải A của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1984. Thông qua hình tượng nghệ thuật “Ánh trăng” và cảm xúc của nhà thơ, bài thơ đã diễn tả những suy ngẫm sâu sắc về thái độ của con người đối với quá khứ gian lao, tình nghĩa.

Cuộc đời của mỗi con người dù đi đâu về đâu cũng không bao rời xa vầng trăng tình nghĩa. Chỉ có con người có lúc lãng quên trăng, chứ trăng bao giờ cũng ở bên người, sẵn sàng cùng người sẻ chia tâm sự. Chính vì thế, đối với ai trăng cũng sẵn sàng làm tri kỉ. Đối với Nguyễn Duy cũng vậy:

“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ”

Thể thơ năm chữ với nhịp điệu linh hoạt thể hiện sự vận động của không gian – thời gian. Cái hay là bằng hình ảnh không gian (đồng-sông-bể-rừng) diễn tả sự vận động của thời gian: quá trình trưởng thành của tác giả (nhỏ-trưởng thành-đi chiến đấu)… Trong quá trình ấy, kỉ niệm đẹp biết bao con người sống với thiên nhiên, với trăng chan hòa, gắn bó không gì ngăn cách được. Từ “với” được điệp lại ba lần nhằm diễn tả một thời niên thiếu đi nhiều, được cảm nhận những vẻ đẹp kì thú của thiên nhiên: ngắm trăng trên đồng quê, trên dòng sông, trên bãi bồi. Vì vậy những kỉ niệm thời niên thiếu vui cùng trăng, sống với trăng đã trở thành những ấn tượng khắc sâu trong tâm trí không thể phai mờ.

Trưởng thành rồi đi chiến đấu trên những nẻo đường hành quân, phải lặn lội trong rừng sâu núi thẳm, trăng là bạn đồng hành đã chia sẻ ngọt bùi, cùng hân hoan trong niềm vui chiến thắng hoặc cùng ngậm ngùi, bồn chồn với nỗi nhớ nhà, nhớ quê. Nên trăng là tri kỉ, là nghĩa tình.

Khổ thơ thứ hai là tiếng lòng hoài niệm về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên đất nước bình dị, hiền hậu:

“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”

Vì tâm hồn người chiến sĩ vô tư hồn nhiên trải lòng ra với thiên nhiên nên không gì ngăn cách được. Con người lúc bấy giờ, cuộc sống lúc bấy giờ chân thật, vô tư, không lọc lừa, không có những toan tính mà sống tự nhiên “hồn nhiên như cây cỏ”, coi thiên nhiên là nhân vật, là con người. Vầng trăng là biểu tượng đẹp của những năm tháng ấy, đã trở thành “vầng trăng tri kỉ”, “vầng trăng tình nghĩa” ngỡ không bao giờ có thể quên. Một ý thơ lay động tâm hồn, như một sự thức tỉnh lương tâm đối với những kẻ vô tình: “ngỡ không bao giờ quên”. Từ “ngỡ” như một điểm nhấn, mang tính dự báo là sẽ quên, trong đó như có lời tác giả tự trách mình…

“Từ hồi về thành phố
quen với ánh điện của gương
vầng trăng đi qua ngõ
như vầng trăng qua đường”

Ở thành phố đầy đủ tiện nghi vật chất, ở buyn đinh cao ốc, quen với ánh điện cửa gương, hoàn cảnh sống đã thay đổi con người cũng dễ đổi thay, có lúc trở nên vô tình, có kẻ trở thành “ăn ở bạc”. Cuộc sống hiện tại chói lòa ánh điện đã làm lu mờ ánh sáng hiền dịu của vầng trăng. Trăng được nhân hóa đi qua ngõ mà như người dưng qua đường. Tác giả xây dựng hai hình ảnh đối lập giữa vầng trăng tri kỉ của quá khứ với vầng trăng với vầng trăng “như người dưng qua đường” trong hiện tại. Sự đối lập này diễn tả sự đổi thay trong tình cảm của con người. Trước bao vinh hoa phú quý, người ta có thể phản bội lại chính mình, thay đổi tình cảm với nghĩa tình đã qua. Và đó cũng là một quy luật của cuộc sống tình cảm của con người. Nhà thơ Tố Hữu cũng đã có lần viết:

“Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao nào thấy núi đồi nữa chăng
Phố đông còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?”

Trăng đâu cao xa, trăng gần gũi, thân thương, trăng là nghĩa tình, là tri kỉ, không bao giờ phản bội. chỉ có con người hờ hững với trăng. Nguyễn Duy tự vấn, tự trách mình vô tình, coi trăng như “người dưng qua đường”.

Kết cấu của bài thơ có chút kịch tính khi chuyển qua khổ thứ tư gây bất ngờ, đột ngột:

“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”

Tình huống mất điện đột ngột trong đêm là chuyện hiếm gặp ở thành phố ta trong những năm tháng ấy (1978) khiến tác giả vốn đã quen với ánh sáng, không thể chịu nổi cảnh tối om nơi phòng buyn-đinh “vội bật tung cửa sổ” rồi “đột ngột vầng trăng tròn”. Các từ “vội”, “bật tung”, “đột ngột” diễn tả trạng thái cảm xúc mạnh mẽ, bất ngờ. Ánh trăng tròn hiện lên giữa bầu trời sừng sững, giữa bầu trời ấy đâu phải khi “đèn điện tắt” mới có? Cũng như những tháng năm quá khứ, vẻ đẹp của đồng, sông, bể, rừng không bao giờ mất đi. Chỉ có điều con người có nhận ra hay không mà thôi.

Và trong cái khoảnh khắc “đột ngột” đối diện với trăng ấy, ân tình xưa “rung rung” sống dậy, thổn thức lòng người:

“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rung rung
như là đồng là bể
như là sông là rừng”

Từ “mặt” được dùng với nghĩa gốc và nghĩa chuyển – mặt trăng, mặt người – trăng và người cùng đối diện đàm tâm. Với tư thế “ngửa mặt lên nhìn mặt” người đọc cảm nhận sự lặng im, thành kính và trong phút chốc cảm xúc dâng trào khi gặp lại vầng trăng: “có cái gì rưng rưng”. Rưng rưng của những niềm thương nỗi nhớ, của những lãng quên lạnh nhạt với người bạn cố tri; của một lương tri đang thức tỉnh sau những ngày đắm chìm trong cõi u mê mộng mị; rưng rưng của nỗi ân hận ăn năn về thái độ của chính mình trong suốt thời gian qua. Một chút áy náy, một chút tiếc nuối, một chút xót xa đau lòng, tất cả đã làm nên cái “rưng rưng”,cái thổn thức trong sâu thẳm trái tim người lính.

Và trong phút giây nhân vật trữ tình nhìn thẳng vào trăng – biểu tượng đẹp đẽ của một thời xa vắng, nhìn thẳng vào tâm hồn của mình, bao kỉ niệm chợt ùa về chiếm trọn tâm tư. Kí ức về quãng đời ấu thơ trong sáng, về lúc chiến tranh máu lửa, về cái ngày xưa hồn hậu hiện lên rõ dần theo dòng cảm nhận trào dâng, “như là đồng là bể, như là sông là rừng”. Đồng, bể, sông, rừng,những hình ảnh gắn bó nơi khoảng trời kỉ niệm.

Cấu trúc song hành của hai câu thơ, nhịp điệu dồn dập cùng biện pháp tu từ so sánh, điệp ngữ và liệt kê như muốn khắc họa rõ hơn kí ức về thời gian gắn bó chan hòa với thiên nhiên, với vầng trăng lớn lao sâu nặng, nghĩa tình, tri kỉ. Chính thứ ánh sáng dung dị đôn hậu đó của trăng đã chiếu tỏ nhiều kỉ niệm thân thương, đánh thức bao tâm tình vốn tưởng chừng ngủ quên trong góc tối tâm hồn người lính. Chất thơ mộc mạc chân thành như vầng trăng hiền hòa, ngôn ngữ hàm súc, giàu tính biểu cảm như “có cái gì rưng rưng”,đoạn thơ đã đánh động tình cảm nơi người đọc.

Khổ thơ cuối cùng mang nhiều ý nghĩa đưa tới chiều sâu tư tưởng mang tính triết lý:

“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”

Hình ảnh “trăng cứ tròn vành vạnh” là tượng trưng cho quá khứ nghĩa tình, thủy chung, đầy đặn, bao dung, nhân hậu. Trăng không trách móc, hờn giận “người vô tình”vì đó là vầng trăng độ lượng, khoan dung, là truyền thống nhân hậu của dân tộc.

Hình ảnh “Ánh trăng im phăng phắc” cũng là hình ảnh của lương tâm nghiêm khắc nhắc nhở từ chính sự im lặng của mình về sự thủy chung, gắn bó với quê hương, với thiên nhiên và con người. Chính cái im phăng phắc của vầng trăng đã đánh thức con người, làm xáo động tâm hồn người lính năm xưa. Con người “giật mình” trước ánh trăng là sự bừng tỉnh của nhân cách, là sự trở về với lương tâm trong sạch, tốt đẹp. Đó là lời ân hận, ăn năn day dứt, làm đẹp con người. Mạch cảm xúc của bài thơ lắng kết trong cái “giật mình” cuối bài thơ. Đây là sự ăn năn tự trách để nhắc nhở mình phải sống có nghĩa tình đừng quên ân tình của quá khứ dù bất kì hoàn cảnh nào.

Với giọng điệu tâm tình tự nhiên, hình ảnh giàu tính biểu cảm, “Ánh trăng” nhắc nhở con người về lẽ sống ân tình thủy chung với thiên nhiên đất nước. từ đó, ta thêm trân trọng quá khứ, có thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”.

Tố Hữu trong bài thơ Việt Bắc đã từng nhắc đến vầng trăng nghĩa tình, thủy chung ấy. Một sự kiện chính trị đã chuyển hoá thành thơ ca theo cách tâm tình hoá chính là một đặc trưng của lối thơ trữ tình – chính trị của Tố Hữu. Việc “dời đô” (Việt Bắc là thủ đô kháng chiến – Tố Hữu gọi là “Thủ đô gió ngàn”) đã thành câu chuyện ân tình chung thủy của người cách mạng với rừng núi chiến khu, với đồng bào, với quá khứ, với chính mình.Đôi trai gái xưng hô theo lối rất dân gian: Ta – mình. Nỗi băn khoăn lớn nhất của ta và mình trong cuộc chia tay giã bạn là ân tình – chung thuỷ:

Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao, còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông, còn nhớ bản làng
Sáng đèn, còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?
Mình đi, ta hỏi thăm chừng
Bao giờ Việt Bắc tưng bừng thêm vui

“Mình về mình có nhớ ta” đã là chuyện chung thuỷ! Nhưng “mình đi mình có nhớ mình” thì ân tình chung thuỷ đã được đẩy tới một mức thật sâu. Mình đi khỏi Việt Bắc là đi khỏi thời gian khổ, nơi gian khổ, có thể mình quên ta phụ ta. Nhưng mình có nhớ chính mình chăng, có phụ chính mình được chăng? Nơi phố đông, sáng đèn có còn nhớ đến những tháng ngày vất vả, gian lao, nghĩa tình, thủy chung nơi rừng núi? Những câu hỏi thâm thúy ân tình như vậy đã giúp Tố Hữu dân gian hoá, truyền thống hoá một vấn đề của cách mạng, vấn đề của hôm nay. Người ra đi cũng trả lời, cũng ghi lòng tạc dạ với một tinh thần như thế. Thế nhưng, khi đến với bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy, ta bòng “giật mình” hiểu ra, người ra đi năm ấy đã vội quên lời dặn dò của người ở lại năm xưa mất rồi.

Hình ảnh vầng trăng và người lính là hai hình tượng vốn có sự gắn kết bền chặt trong thi ca. Có lẽ, không gian chiến đấu của người lính thường là nơi rừng núi, không gian lặng lẽ, chỉ có trăng là sự vật rực rỡ nhất, gợi nhớ nhất, lặng lẽ đi vào tâm hồn người lính như một nguồn sống bất tận. Trong bài thơ Đồng chí, nhà thơ chính hữu đã có những lời thơ thật hay:

Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.

Ba câu thơ vừa mang nét mờ ảo lại mang nét tả thực, có thể nói nó chính là cái táo bạo mới mẻ và nhà thơ khám phá. Đây là bức tranh đẹp về tình đồng chí, là biểu tượng cao cả về cuộc đời người chiến sĩ. Hình ảnh “rừng hoang sương muối” gợi sự khốc liệt, khắc nghiệt đến ghê rợn của thiên nhiên, của chiến tranh. Đối lập với thực tại khắc nghiệt ấy là hình ảnh bầu trời đêm “đầu súng trăng treo” vừa rất thực vừa rất lãng mạn:

“Súng” và “trăng” – hai hình ảnh tưởng như đối lập song lại thống nhất hòa quyện – là cứng rắn và dịu êm – là gần và xa – là thực tại và mơ mộng – là chất chiến đấu và chất trữ tình – là chiến sĩ và thi sĩ.

Hiếm thấy một hình tượng nào vừa đẹp,vừa mang đầy đủ ý nghĩa như “Đầu súng trăng treo” của Chính Hữu. Đây là một phát hiện, một sáng tạo bất ngờ về vẻ đẹp bình dị và cao cả trong tâm hồn người chiến sĩ. Khoảng cách giữa bầu trời và mặt đất chưa bao giờ lại gần đến thế nó chỉ cách nhau một chữ “treo” mà thôi. Phải chăng ngoài ý nghĩa lãng mạn nhà thơ còn muốn thể hiện một ý nghĩa sâu xa khác? Đó chính là mong muốn khát vọng về một ngày mai hòa bình và hạnh phúc? Sau đêm nay ngày mai bình minh sẽ ló dạng xua tan đi những cái buốt giá của thời gian và không gian?

Có thể nói ba câu thơ cuối cùng của bài thơ như một lời kết nhẹ nhàng và lắng đọng trong tâm trí của người chiến sĩ cũng như độc giả. Nó đã gợi cho người đọc biết bao nhiêu ấn tượng bao nhiêu suy nghĩ đặc sắc. Đó là ánh sáng của tự do, của độc lập mà chúng ta hướng tới trong một tương lai không xa.

Với giọng điệu tâm tình tự nhiên, hình ảnh giàu tính biểu cảm. “Ánh trăng” của Nguyễn Duy như một lời tự nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu. Bài thơ ý nghĩa gợi nhắc, củng cố ở người đọc thái độ sống uống nước nhớ nguồn, ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ. Vì vậy, bài thơ dung những lời lẽ, tình đời, tình người vẫn vấn vương cùng người đọc.

Phân tích bài Ánh trăng – Mẫu 2

“Văn chương chân chính dù sáng tác ở thời đại nào cũng góp phần gợi mở, định hướng giá trị sống cho con người hiện tại.” Quả thật vậy, mỗi tác phẩm văn học đều mang trong mình những bài học nhân sinh sâu sắc và tác phẩm “Ánh trăng” của nhà thơ Nguyễn Duy cũng là một tác phẩm văn học chân chính khi gửi gắm tới bạn đọc bài học có giá trị muôn thời – bài học về lối sống ân nghĩa, thủy chung.

Tác phẩm “Ánh trăng” được Nguyễn Duy sáng tác năm 1978 khi đất nước đã giải phóng được khoảng ba năm. Bước ra khỏi cuộc sống chiến đấu gian khổ đề sống những ngày tháng hòa bình, độc lập, con người ta thường dễ dàng lãng quên đi những quá khứ gian lao mà tình nghĩa của một thời. Bởi vậy, để nhắc nhở chính mình cũng như mọi người, Nguyễn Duy đã sáng tác nên bài thơ này,

Mở đầu tác phẩm, tác giả đưa người đọc trở về sống trong những ngày tháng quá khứ với những kỷ niệm khó phai:

“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hổi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỷ”

Sự xuất hiện của những hình ảnh “đồng”, “sông”, “bể”, “rừng” gợi cho ta liên tưởng đến khoảng không gian bao la, khoáng đạt. Không gian ấy cứ mỗi lúc được mở rộng hơn trước mắt chúng ta. Kèm theo đó là sự lớn khôn, trưởng thành của nhân vật trữ tình. Mới ngày nào chỉ là một đứa trẻ hồn nhiên nô đùa trên đồng ruộng sông nước quê hương vậy mà giờ đã trở thành người lính trường thành xông pha trận mạc gian khổ. Gắn bó thân thiết cùng với người lính, “vầng trăng trở thành tri kỷ”, luôn đồng hành, chia ngọt sẻ bùi cùng người lính trong suốt những đêm dài chiến dịch. Bởi vậy mà người lính năm xưa đã từng khẳng định:

“ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”

“Ngỡ” có nghĩa là nghĩ, là tin, là tưởng. Nói ra điều này chứng tỏ người lính luôn tin tưởng rằng tình cảm gắn bó giữa mình và trăng sẽ mãi mãi bền chặt, không thể tách rời. tuy nhiên ngỡ không bao giờ quên có nghĩa là đã có lúc trót quên. Câu thơ mang chút ngậm ngùi, xót xa bởi những tình cảm gắn bó tưởng chừng không bao giờ thay đổi vậy mà giờ đã đổi thay. Dòng hồi tưởng về quá khứ khép lại nhưng cũng lại mở ra một bước ngoặt mới, tạo bước đệm để thể hiện được tư tưởng bài thơ.

Chiến tranh kết thúc, người lính rời xa núi rừng gian khổ về với cuộc sống phố phường hiện đại, nơi có “ánh điện”, “cửa gương” xa hoa, hào nhoáng. Cuộc sống ấy hoàn toàn đối lập với cuộc sống kháng chiến gian khổ, thiếu thốn trước đây của người lính. Nhưng sự thay đổi về hoàn cảnh sống ấy lại tới một sự đổi thay khác – sự đổi thay trong lòng người:

“vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”

“Người dưng” là người xa lạ không quen biết và đau đớn hơn là người dưng ấy lại đã từng là tri kỷ một thời. Thế mới biết sức mạnh cuộc sống vật chất ghê gớm đến mức độ nào. Nó có thể làm thay đổi cả lương tâm con người. Quên đi trăng đồng nghĩa với việc người lính đã quên đi quá khứ gian lao mà nghĩa tình, quên đi mất mát hi sinh của dân tộc, quên đi chính bản thân mình với những lý tưởng cao đẹp của một thời tuổi trẻ. Thế nhưng, một tình huống đã xảy ra:

“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn – đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”

Từ láy “đột ngột” được đảo lên đầu câu nhấn mạnh thái độ ngạc nhiên, ngỡ ngàng của người lính khi gặp lại vầng trăng tròn vành vạnh trên bầu trời thành phố. Có thái độ ấy còn bởi vì bấy lâu nay người lính đã quên trăng, coi trăng là xa lạ nhưng vầng trăng vẫn hiện diện, vẫn thủy chung với con người một cách vẹn nguyên như thuở còn gian khó. Trong giây phút gặp lại “cố nhân” ấy, người lính có hành động “ngửa mặt lên nhìn mặt”. Tác giả không viết “ngửa mặt lên nhìn trăng” bởi lẽ ông đã thực sự coi trăng là một con người trong cuộc hội ngộ không hẹn trước. Chính trong lúc ấy, nhà thơ lại thấy “rung rung” bao nỗi niềm xúc cảm, muốn nói mà chẳng thể cất thành lời. Một lần nữa , các hình ảnh “đồng”, “sông”, “rừng”, “bể” lại một lần nữa xuất hiện mở ra những trang ký ức quá khứ nghĩa tình năm xưa. Trăng giờ đây hiện lên là biểu tượng cho vẻ đẹp vĩnh hằng của thiên nhiên, đất nước; cho một thời quá khứ nghĩa tình; cho một thời tuổi trẻ với bao lí tưởng sống tốt đẹp.

Đoạn thơ cuối kết tinh những suy ngẫm của người lính về vầng trăng:

“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình.”

Cấu trúc “cứ…kể chi…” gợi ra hình ảnh người và trăng trong trạng thái đối lập tương phản” trăng mãi thủy chung, nguyên vẹn dù con người có bội bạc, lãng quên. Nghệ thuật nhân hóa góp phần nhấn mạnh vẻ đẹp vĩnh hằng của thiên nhiên đất nước. Trong cuộc gặp gỡ, trăng không một lời trách mắng mà chỉ “im phăng phắc”. Phép nhân hóa khiến ta liên tưởng đến hình ảnh của vị quan tòa tuy bao dung độ lượng nhưng vô cùng nghiêm khắc khiến con người phải giật mình. Cái “giật mình” ở đây là cái giật mình đầy ý nghĩa. Người lính “giật mình” là bởi đã nhận ra được lỗi lầm của bản thân, những vô tình, sai phạm đáng trách. “Giật mình” còn do sự ăn năn, hối lỗi, xấu hổ trước vầng trăng tình nghĩa vẫn vẹn nguyên, tự thấy bản thân cần phải thay đổi cách sống. Có được những giây phút như vậy, con người sẽ sống trong sáng hơn, lương thiện hơn, tốt đẹp hơn. Bài thơ đi dần về những triết lí sâu sắc của cuộc đời. Nó là lời nhắc nhở ta về một đạo lí sống từ ngàn xưa của dân tộc ta – lối sống ân nghĩa, thủy chung, uống nước nhớ nguồn. Ta không được phép quên đi những mất mát hi sinh của những người đi trước, những người đã hi sinh mồ hôi và xương máu cho chúng ta ngày nay được hưởng một cuộc sống bình yên, độc lập. Bởi thế, mỗi người đặc biệt là thế hệ trẻ phải biết sống có trách nhiệm, sống sao cho xứng đáng với những gì mình được hưởng.

Bài thơ được viết theo thể thơ năm chữ, chỉ viết hoa chữ cái đầu tiên của mỗi khổ khiến dòng cảm xúc liền mạch tạo cho bài thơ dáng dấp như một câu chuyện kể theo trình tự thời gian, kéo dài từ quá khứ đến hiện tại. Tác giả xây dựng được hình tượng vầng trăng giàu ý nghĩa biểu tượng, từ đó giúp nhà thơ truyền tải những thông điệp sâu sắc đến bạn đọc. Bài thơ không chỉ là câu chuyện của riêng tác giả mà là cả với những thế hệ đã từng đi qua chiến tranh, những ngày tháng gian lao mà nghĩa tình.

Đi qua ngày tháng bom rơi đạn lửa, con người ta sống trong thời bình bởi vậy mà dễ dàng quên đi một thời đã qua. “Ánh trăng” của Nguyễn Duy có giá trị muôn thời là bởi vậy. Nó đã định hướng một lối sống tình nghĩa, thủy chung không chỉ với thế hệ khi ấy mà cả hiện tại và mai sau.

Phân tích bài thơ Ánh trăng – Mẫu 3

Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã từng nhận định “Tác phẩm vừa là kết tinh của tâm hồn người sáng tác, vừa là sợi dây truyền cho mọi người sự sống mà nghệ sĩ mang trong lòng”. Với bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy, nhận định đó trở nên đúng đắn và xác thực hơn bao giờ hết. Qua mạch cảm xúc dâng trào mãnh liệt, ta cảm nhận được một ngòi bút sâu sắc, một trái tim tinh tế rung động, trước những đổi thay nhỏ bé nhất, và cả một khát khao ước vọng truyền cho mọi người lẽ sống, cách sống trọn vẹn, tình nghĩa.

Nguyễn Duy sinh năm 1948, ông thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành từ kháng chiến chống Mĩ. Thơ ông thiên về chiều sâu nội tâm với những trăn trở day dứt, suy tư khôn ngôi. Hãy lật đến Anh trăng đầy chất triết lí, tìm về Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, nhẹ nhàng, tình cảm nhóm lại tình yêu gia đình với Hơi ấm ổ rơm,… ta sẽ cảm nhận rõ nhất những trăn trở, day dứt, suy tư say sưa ấy trong suốt những tác phẩm của ông.

Trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Duy, lung linh rực rỡ một “ánh trăng” tròn đầy. Ánh trăng ấy là lời thức tỉnh nhẹ nhàng mà hết sức sâu sắc về triết lí nhân sinh, lẽ sống thủy chung, tình nghĩa và những trăn trở suy nghĩ trước cuộc sống hiện đại đầy cám dỗ, đầy lãng quên và vô tình.

Hai khổ thơ đầu tiên gợi lại những kỉ niệm đẹp, những tình cảm gắn bó giữa con người và vầng trăng trong quá khứ. Bốn câu thơ nhẹ nhàng như những lời thủ thỉ, tâm tình, kể về một quãng thời gian của tuổi thơ, tuổi trẻ, nhất là quãng thời gian chiến tranh gian khổ. Ngôn ngữ thơ mộc mạc, bình dị: “hồi nhỏ”, “hồi chiến tranh”. Câu thơ mở ra một không gian bao la, mênh mông sông nước, khoảng trời ấy nuôi lớn cả một tâm hồn tuổi thơ với bao khát vọng, khoảng rộng ấy được mở ra rồi thu lại khăng khít, gắn bó với quá khứ biết bao tình nghĩa. Điệp từ “với” được nhắc lại ba lần, nhấn mạnh sự thân thiết, gần gũi giữa con người với thiên nhiên:

Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ

Cuộc sống “hồi nhỏ”, “hồi chiến tranh” tuy khó khăn, vất vả mà chan hòa với thiên nhiên. Cuộc sống ấy bình dị, vô tư và mênh mông hoài bão như thiên nhiên, như cánh rừng mặt bể. Chợt nhận ra, ta có một người bạn hiền hòa, gắn bó, “tri kỉ” – vầng trăng tròn đầy, hiền dịu. vẻ đẹp của trăng xoa dịu những vết thương do chiến tranh gây ra, xoa dịu những mỏi mệt, buồn đau của cuộc sống ấy; trăng vỗ về cho con người bằng những sẻ chia lặng im, bằng những đêm sát cánh bên nhau “đầu súng trăng treo”. Trăng theo ta trên mọi bước đường đi, là người bạn đồng hành tin cậy nhất. Vì lẽ ấy, trăng chính là hiện thân của quá khứ, của kí ức chan hòa tình nghĩa:

Trần trụi với thiên nhiên hồn nhiên như cây cỏ ngỡ không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa Vầng trăng đã được nhân hóa cao độ để trở thành người bạn tinh thần của nhà thơ, một người bạn tri âm tri kỉ tưởng chừng sẽ không bao giờ quên được. Thế nhưng, giữa dòng hồi tưởng tươi đẹp và bình yên, tác giả chợt bất ngờ có những băn khoăn, vướng bận, mờ hồ, báo hiệu cho sự xuất hiện của những biến chuyển trong câu chuyện. Từ “ngỡ” như điểm tiếp nối tinh tế giữa hai khổ thơ, làm bài thơ giữ được nét uyển chuyển trong cả nội dung và ngôn từ.

Khép lại nhẹ nhàng đẹp như mơ trong quá khứ ngòi bút tác giả đưa ta đến với hiện tại, với những đổi thay, xa cách trong lòng người. Chiến tranh qua đi, người lính trở về guồng quay xô bồ và náo nhiệt của cuộc sống. Tác giả nhận ra một quy luật đáng buồn của cuộc sống: khi được sống trong nhung lụa ấm êm, con người ta dễ quay lưng lại với quá khứ vất vả, nghèo nàn, dù đó có là một quá khứ mơ mộng, đẹp đẽ và đáng quý. Quy luật ấy đi từ sự lãng quên, đổi thay quá nhanh của con người:

Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường

“ánh điện, cửa gương” là cách nói hoán dụ cho cuộc sống tiện nghi hiện đại, xa rời thiên nhiên. Từ đổi thay trong hoàn cảnh sống, lòng người cũng dần đổi thay, khó nhận ra, mà hay là đã nhận ra nhưng cố tình quên đi. Vầng trăng từ chỗ là người bạn thân thiết gắn bó trở thành “người dưng qua đường”. Vầng trăng thì một mực thủy chung tình nghĩa “đi qua ngõ” như đợi người bạn cũ nhận ra, thế nhưng người bạn cũ ngày xưa nay đã quen với ánh sáng của đèn điện vàng bọt giả tạo, giam mình trong bốn bức tường bê tông gạch đá chật hẹp tù túng mà tưởng cuộc sống đã sung sướng hơn xưa. Người ta đã để cho xi măng láng trơn tuột đi những rung động, xúc cảm tinh tế của trái tim, và trát kín cả những khe sáng huyền diệu từ quá khứ rọi về. Sống cuộc sống như thế, phải chăng ta đang đánh đổi cái giàu có trong tâm hồn lấy những tiện nghi hiện đại phù phiếm xa hoa, khi mà hạnh phúc đích thực luôn là một trái tim tràn đầy tình yêu thương!

Sự lãng quên ấy có thể là mãi mãi nếu không có một chuyển biến bất ngờ: thành phố bị mất điện. Hoàn cảnh bài thơ là bước ngoặt tạo cảm xúc dâng trào, giúp nhà thơ bộc lộ rõ nét cảm xúc, tư tưởng chủ đề của tác phẩm.

Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn

Tình huống tưởng như không có gì mới mẻ, lạ lẫm, nhất là những năm đầu giải phóng như thời điểm sáng tác bài thơ – năm 1978, nhưng đặt vào hoàn cảnh tác giả, nó làm nổi bật lên sự đối lập tương phản giữa ánh sáng và bóng tối. Các từ ngữ “thình lình”, “vội”, “bật tung” tạo nhịp thơ nhanh, mạnh; để rồi tất cả như sững lại, lặng đi bởi một vầng trăng tròn” “đột ngột” và lung linh. Chính khoảnh khắc ấy đã làm nổi bật lên ý nghĩa tuyệt đẹp của toàn bài: con người vội vã, gấp gáp với cuộc sống hiện đại khi nhận ra vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống thì thật bàng hoàng, sững sờ. Đã có “ánh điện” sáng trưng, người ta đâu cần ánh trăng huyền diệu lờ mờ nữa, chỉ đến khi thứ ánh sáng nhân tạo kia mất đi, người ta mới nhận ra người bạn cũ từng nguyện mãi mãi không quên và sững người trước người bạn trăng tròn đầy, vẹn nguyên, luôn chung thủy đợi chờ. Khoảnh khắc người và trăng mặt đối mặt thì tình xưa nghĩa cũ dâng lên đến tràn đầy. Cuộc hội ngộ bất ngờ tạo rung động mạnh mẽ và thức tỉnh lương tâm con người; cái “đột ngột” không phải ở trăng, mà ở chính tâm trạng tác giả – tâm trạng thảng thốt, ngỡ ngàng của con người trước sự đổi thay của lòng mình và Sự vẹn tròn của trăng, để từ đó đi đến những day dứt, suy tư.

Nếu như khổ thơ thứ tư đẩy tình huống thơ đến cao trào thì khổ thơ thứ năm lại “rưng rưng” trong sự xúc động mãnh liệt của nhà thơ.

Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng

Nhà thơ đối diện với trăng trong cái lặng im có phần thành kính; từ “mặt” cuối câu thơ là từ nhiều nghĩa tạo ý thơ gợi mở cho người đọc, nhà thơ đối diện với trăng hay thiên nhiên đối diện với con người; và có lẽ cũng là hiện tại đối diện với quá khứ, bạc bẽo vô tình với thủy chung gắn bó. Bất ngờ gặp lại người bạn cũ, nhà thơ chợt nhận ra thứ mặt nạ của thời gian đã che lấp tất cả, trong giây phút ấy, nhà thơ tưởng như “rưng rưng” xúc cảm – tự hổ thẹn với chính sự đổi thay vô tình của bản thân. Nhưng cũng đan xen vào nỗi hổ thẹn đó, một cảm xúc nghẹn ngào vui sướng đang len lỏi vào trái tim khô cằn bấy lâu nay của nhà thơ, gặp lại trăng – gặp lại người bạn cũ, ông chợt hồi tưởng lại một quãng thời gian thương nhớ, với đồng, với bể, với sông với rừng. Cuộc sống hiện tại như ngừng lại nhường chỗ cho dòng kí ức ùa về, nhường chỗ cho giây phút tự nhìn lại bản thân. Câu thơ trải dài bao quát cả quá khứ và hiện tại, thiên nhiên và con người, lao động và chiến đấu, thủy chung tình nghĩa và bạc bẽo vô tình. Trăng còn gợi đến hình ảnh của hiện tại, của vẻ đẹp thiên nhiên mơ màng hùng vĩ, gợi lên những bừng tỉnh đột ngột để nêu lên một khát vọng lớn lao vào tương lai. Nhịp thơ nhanh, với một loạt các từ ngữ liệt kê “đồng”, “biển”, “rừng”, “sông” cuốn vào mạch cảm xúc của bài thơ, giúp người đọc như cùng chung cảm xúc với nhân vật, với hoàn cảnh trữ tình.

Từ những hồi tưởng và thức tỉnh, nhà thơ đi đến suy ngẫm và triết lí nhân sinh sâu sắc khái quát nội dung toàn bài thơ:

Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình

Trong cuộc gặp mặt bất ngờ, trăng và người như có sự đối lập. Trăng trở thành biểu tượng của sự vĩnh hằng bất biến, vầng trăng “cứ tròn vành vạnh” tượng trưng cho sự tròn đầy, trọn vẹn tình nghĩa của thiên nhiên, cuộc sống và con người trong quá khứ dù cho con người nay đã đổi thay “vô tình”. Ánh trăng được nhân hóa “im phăng phắc”, gợi cái nhìn bao dung, độ lượng mà nghiêm khắc của người bạn thủy chung. Hình ảnh thơ được lấy từ hiện thực – thiên nhiên bất biến, vĩnh hằng để khái quát nên một lẽ sống cao đẹp 1 tình nghĩa, trọn vẹn, chung thủy và vị tha. Tấm lòng đáng trân trọng ấy là tấm lòng của những người đồng chí đồng đội một thời sống chết vì nhau của đồng bào nhân dân đã san sẻ từng “chia nhau củ sắn bùi/ Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”. Cao đẹp biết bao là tình người vị tha, bao dung, độ lượng, vị tha để, người bạn vô tình được “giật mình” thức tỉnh và kịp có một cơ hội níu giữ quá khứ, níu giữ tấm lòng trong sạch, thanh cao.

Có lẽ vì thế mà chỉ ánh nhìn “im phăng phắc” là đã đủ, câu thơ cuối dồn nén nghẹn ngào tạo âm vang lớn trong lòng người đọc về những bừng tỉnh suy tư.

Ánh trăng gây nhiều xúc động bởi cách diễn tả bình dị, thủ thỉ tâm tình, giọng thơ trầm tĩnh, Bài thơ không chỉ giống một câu chuyện nhỏ mà còn như một áng văn nghị luận xã hội đầy chất thơ, sự mạch lạc tuần tự của tự sự và nghị luận giúp bài thơ đi vào tâm trí người đọc thật dễ dàng, tự nhiên, khắc sâu triết lí sống cao đẹp, thủy chung có tình có nghĩa, bộc lộ niềm băn khoăn trăn trở trước thực tại:

Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao còn nhớ núi đồi nữa chăng
Phố đông còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng

Chất tự sự và chất trữ tình đan xen hòa quyện vào từng âm điệu, dòng thơ. Các chữ đầu dòng thơ không viết hoa thể hiện dòng cảm xúc mãnh liệt của tác giả. Nhịp thơ khi ngân nga, vang, vọng, khi dồn dập, mạnh mẽ, lúc trầm lắng ăm ắp suy tư tạo cho tác phẩm sự trôi chảy, mượt mà, tự nhiên và nhịp nhàng trong dòng cảm xúc dâng trào.

Câu chuyện của nhà thơ không chỉ dành riêng cho chính bản thân ông, nó còn có sức khái quát rất lớn với cả một thế hệ trải qua những năm dài mất mát của chiến tranh, nơi đạn bom, gian khổ. Câu chuyện của vầng trăng còn gặp lại nhiều câu chuyện khác – cùng với nỗi xót xa, trăn trở về cuộc sống đổi thay, như Ăn mày dĩ vãng với Ba Sương và Hai Hùng của Chu Lai, như Việt Bắc với “mình” và “ta” của Tố Hữu. Tất cả như đồng lòng nhất trí chung sức rung một hồi chuông lớn đến người đọc: đừng bao giờ quên quá khứ đừng bao giờ sông bạc bẽo vô tình. Cuộc sống dẫu có đổi thay lòng người dẫu có xa khác, nhưng đừng bao giờ quên đạo lí thủy chung “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc, đừng bao giờ đánh đổi tình nghĩa sâu nặng lấy những phù phiếm hão huyền.

Phân tích bài thơ Ánh trăng – Mẫu 4

Cuộc sống là những chuỗi biến chuyển và đổi thay mà con người không thể nào lường trước được. Đôi khi chúng ta bị cuốn theo dòng chảy bất tận của nó mà vội vã bỏ quên những giá trị, những nghĩa tình thuỷ chung cũng chưa xa trong quá khứ. Sau cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ vĩ đại của dân tộc – cuộc chiến mà biết bao nhiêu máu và nước mắt đã đổ xuống cho sự thống nhất của dân tộc, cuộc chiến mà trong nó hiển hiện bao nhiêu chiến công lẫy lừng, bao nhiêu tấm gương hi sinh anh dũng, chúng ta thật xót xa khi phải chứng kiến sự thờ ơ, lạnh nhạt của con người trước những năm tháng tưởng như không thể nào quên ấy. Văn học thời kì đó nhận thức rõ điều đó. Nhiều tác phẩm đã gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh đầy ngỡ ngàng và chua xót đối với cái xã hội đang quẩn quanh trong nỗi lo cơm áo gạo tiền. Bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy là một trong số đó.

Tác giả đặt nhan đề cho “bài thơ là Ánh trăng. Quả thật xuyên suốt tác phẩm là hình ảnh ánh trăng – vầng trăng của đồng quê, của rừng vàng, biển bạc. vầng trăng ấy đã theo chân tác giả thuở còn thơ cho đến những năm tháng nhọc nhằn của tâm hồn con người với một vẻ đẹp tuy hoang sơ mà kì diệu. Cao hơn nữa, con người và vầng trăng đã trở thành tri kỉ. Sợi dây gắn bó mối quan hệ đó bền chặt, xoắn xuýt qua bao nhiêu chuyển biến của thời gian đến mức nhà thơ phải thốt lên :

Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa

Nhưng cuộc đời không phải sự kéo dài thẳng tắp của ngày hôm nay, không phải bao giờ cũng đi theo dự tính của con người. Cái mà hôm qua ta nâng niu trân trọng bao nhiêu thì hôm nay rất có thể trở thành thừa thãi, vô nghĩa, xa lạ, lạnh lùng,… bấy nhiêu. Quá khứ dù đẹp đẽ đến đâu vẫn chỉ là quá khứ, Tần có thể bị che khuất bởi những lo toan, dự định với bao khát vọng ước mơ của đời sống thường ngày. Ở đây tác giả đã kể lại câu chuyện đầy cay đắng của một vầng trăng bị lãng quên, bị lấn át bởi “ánh điện cửa gương”. Trong tâm trí con người, vầng trăng tri kỉ của những ngày chưa xa ấy, chua xót thay, giờ đây lại chỉ như “người dưng qua,đường”. Cái ngớ thân quen xưa nay trở nên âm thầm và xa lạ. Rồi ngay sau đó, nhà thơ đã tạo nên bước ngoặt của tác phẩm, khi để tình huống bất ngờ “đèn điện tắt” xảy ra. Lúc đó, con người đối diện với vầng trăng tròn trịa ân tình trong quá khứ, khiến họ chợt nhận ra vẻ đẹp và giá trị đích thực của những ngày xưa cũ ẩn sau sự dịu dàng, bao dung của ánh trăng.

Trên cơ sở đó, tác giả đã viết nên khổ thơ cuối, khổ thơ chứa đầy ý nghĩa triết lí sâu sắc của toàn bài thơ.

Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình.

Vầng trăng vẫn còn đó, trọn vẹn và cao thượng đến lạ lùng. Mặc cho con người có thờ ơ, lạnh nhạt, nó vẫn toả sáng với bao vẻ đẹp tự nhiên, thanh bạch. Vầng trăng đó biểu tượng cho những ngày tháng gian khổ, thiếu thốn mà hào hùng, vinh quang thuở trước, cho tấm lòng của nhân dân yêu thương, chở che, đùm bọc cách mạng:

Trăng cứ tròn vành vạnh

Những giá trị đích thực của quá khứ, những ân tình thuỷ chung của một thời oanh liệt – dù đã lùi xa ẩn mờ vào dĩ vãng nhưng vẫn trường tồn cùng thời gian. Sự tròn đầy, viên mãn của vầng trăng đặt cạnh sự vô tình của con người càng làm tác giả thêm day dứt, hối hận trước tòa án lương tâm. Quả thật, chẳng có toà án nào xét xử sự lãng quên của con người, chỉ có lương tri ở sâu thẳm tâm hồn mới đánh thức trong chúng ta trách nhiệm với quá khứ. Sự cao thượng, vị tha của vầng trăng bất chấp ta vô tình, xa lạ – buộc nhà thơ phải suy nghĩ lại về chính mình. Bài thơ được sáng tác năm 1978, chỉ ba năm sau ngày toàn thắng của dân tộc. Tại sao chỉ ba năm với cuộc sống thị thành, với những bộn bề lo toan thường nhật lại có thể làm người ta lãng quên hơn mười ngàn ngày trong lửa đạn, thiếu thốn, trong ấm áp tình đồng đội, trong/vòng tay che chở của nhân dần ? vẫn biết không có gì là mãi mãi trước sức mạnh xói mòn của dòng chảy thời gian nhưng những điều đang diễn ra vẫn khiến nhà thơ phải ngỡ ngàng nhìn lại.

Con người ta lãng quên nhanh quá ! Còn vầng trăng vẫn nặng lòng sáng soi. Với biện pháp nhân hoá tinh tế:

Ánh trăng im phăng phắc

Ta đã thấy sự bao dung cao cả của vầng trăng quá khứ. Nó im lặng trước sự bội bạc vô tình của con người, cái im lặng dịu dàng, tha thứ nhưng lại như một lời trách cứ nghiêm khắc xoáy sâu vào tâm hồn nhà thơ. Thật lạ, chính sự im lặng ấy, tưởng như yếu ớt và lẻ loi ấy lại có sức mạnh khiến con người ta phải trầm ngâm xét lại mình. Họ chợt nhận ra giá trị của những điều mình đã bỏ quên – quá khứ của chính mình và một thời hào hùng oanh liệt của toàn dân tộc:

Đủ cho ta giật mình

Giọng thơ như một lời tâm tình, thủ thỉ đầy trải nghiệm, từ “giật mình” được tác giả sử dụng rất khéo léo, kết hợp với nhịp thơ liền mạch giàu sức biểu cảm làm toát lên ý nghĩa toàn bài thơ. Nó không chỉ thể hiện sự ân hận của con người mà còn gửi gắm bên trong nhiều điều nhà thơ muốn nói với cái xã hội đang quay cuồng quanh vòng xoáy của bao lo toan và mưu tính.

Không có quá khứ thì sẽ không có hiện tại và lại càng không có tương lai! Tất cả những gì chúng ta đang có đều dựa trên thành quả của những ngày đã qua. Tất cả những gì chúng ta đang làm đều là tiếp nối những điều cha ông ta và chính chúng ta đã làm trong quá khứ. Phải trân trọng và giữ gìn quá khứ để có thể hướng tới tương lai. Phải chăng đó chính là triết lí mà tác giả Nguyễn Duy muốn gửi gắm đến người đọc qua những vần thơ?

Mục đích của nghệ thuật là tác động đến tâm hồn con người, làm thay đổi con người và xã hội theo hướng tốt đẹp hơn. Bài thơ Ánh trăng, với những đặc sắc riêng biệt về nghệ thuật và nội dung, đã hoàn thành tốt nhiệm vụ đó. Khổ thơ cuối bài là một chút “giật mình” của tác giả, hàm chứa trong đó bao nhiêu triết lí về cuộc sống và cả sự thức tỉnh đến toàn xã hội chúng ta!

Phân tích bài thơ Ánh trăng – Mẫu 5

Trăng – hình ảnh giản dị mà quen thuộc, trong sáng và trữ tình. Trăng đã trở thành đề tài thường xuyên xuất hiện trên những trang thơ của các thi sĩ qua bao thời đại. Nếu như “ Tĩnh dạ tứ” của Lí Bạch tả cảnh đêm trăng sáng tuyệt đẹp gợi lên nỗi niềm nhớ quê hương, “ Vọng nguyệt” của Hồ Chí Minh thể hiện tâm hồn lạc quan, phong thái ung dung và lòng yêu thiên nhiên tha thiết của Bác thì đến với bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy, chúng ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng mang ý nghĩa triết lí sâu sắc. Đó chính là đạo lí “uống nước nhớ nguồn”.

Những sáng tác thơ của Nguyễn Duy sâu lắng và thấm đẫm cái hồn của ca dao, dân ca Việt Nam. Thơ ông không cố tìm ra cái mới mà lại khai thác, đi sâu vào cái nghĩa tình muôn đời của người Việt. “Ánh trăng” là một bài thơ như vậy.Trăng đối với nhà thơ có ý nghĩa đặc biệt: đó là vầng trăng tri kỉ, vầng trăng tình nghĩa và vầng trăng thức tỉnh. Nó như một hồi chuông cảnh tỉnh cho mỗi con người có lối sống quên đi quá khứ.

Tác giả đã mở đầu bài thơ với hình ảnh trăng trong kí ức tuổi thơ của nhà thơ và trong chiến tranh:

“Hồi nhỏ sống với đồng
Với sông rồi với bể
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ”

Hình ảnh vầng trăng đang được trải rộng ra trong cái không gian êm đềm và trong sáng của tuổi thơ. Hai câu thơ với vỏn vẹn mười chữ nhưng dường như đã diễn tả một cách khái quát về sự vận động cả cuộc sống con người. Mỗi con người sinh ra và lớn lên có nhiều thứ để gắn bó và liên kết. Cánh đồng, sông và bể là những nơi chôn cất giữ bao kỉ niệm của một thời ấu thơ mà khó có thể quên được. Cũng chính nơi đó, ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng. Với cách gieo vần lưng “đồng”, “sông” và điệp từ “ với” đã diễn tả tuổi thơ được đi nhiều, tiếp xúc nhiều và được hưởng hạnh phúc ngắm những cảnh đẹp của bãi bồi thiên nhiên của tác giả.Tuổi thơ như thế không phải ai cũng có được ! Khi lớn lên, vầng trăng đã theo tác giả vào chiến trường để “chờ giặc tới’.Trăng luôn sát cách bên người lính, cùng họ trải nghiệm sương gió, vượt qua những đau thương và khốc liệt của bom đạn kẻ thù. Người lính hành quân dưới ánh trăng dát vàng con đường, ngủ dưới ánh trăng, và cũng dưới ánh trăng sáng đù, tâm sự của những người lính lại mở ra để vơi đi bớt nỗi cô đơn, nỗi nhớ nhà. Trăng đã thật sự trở thành “tri kỉ” của người lính trong những năm tháng máu lửa.

Khổ thơ thứ hai như một lời nhắc nhở về những năm tháng đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước hiền hậu, bình dị. Vầng trăng đù, người bạn tri kỉ đó, ngỡ như sẽ không bao giờ quên được:

“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”

Vầng lưng một lần nữa lại xuất hiện: “trần trụi”, “hồn nhiên”, “thiên nhiên” làm cho âm điệu câu thơ thêm liền mạch, dường như nguồn cảm xúc của tác giả vẫn đang tràn đầy. Chính cái hình ảnh so sánh ẩn dụ đã tô đâm lên cái chất trần trụi, cái chất hồn nhiên của người lính trong những năm tháng ở rừng. Cái vầng trăng mộc mạc và giản dị đó là tâm hồn của những người nhà quê, của đồng, của sông. của bể và của những người lính hồn nhiên, chân chất ấy. Thế rồi cái tâm hồn – vầng trăng ấy sẽ phải làm quen với một hoàn cảnh sống hoàn toàn mới mẻ:

“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện, cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”

Thời gian trôi qua cuốn theo mọi thứ như một cơn lốc, chỉ có tình cảm là còn ở lại trong tâm hồn mỗi con người như một ánh dương chói loá. Thế nhưng con người không thể kháng cự lại sự thay đổi đó.Người lính năm xưa nay cũng làm quen dần với những thứ xa hoa nơi “ánh điện, cửa gương”. Và rồi trong chính sự xa hoa đó, người lính đã quên đi người bạn tri kỉ của mình, người bạn mà tưởng chừng chẳng thể quên được, “người tri kỉ ấy” đi qua ngõ nhà mình nhưng mình lại xem như không quen không biết. Phép nhân hoá vầng trăng trong câu thơ thật sự có cái gì đó làm rung động lòng người đọc bởi vì vầng trăng ấy chính là một con người. Cũng chính phép nhân hoá đó làm cho người đọc cảm thương cho một “người bạn” bị chính người bạn thân một thời của mình lãng quên. Sự ồn ã của phố phường, những công việc mưu sinh và những nhu cầu vật chất thường nhật khác đã lôi kéo con người ra khỏi những giá trị tinh thần ấy, một phần vô tâm của con người đã lấn át lí trí của người lính, khiến họ trở thành kẻ quay lưng với quá khứ. Con người khi được sống đầy đủ về mặt vật chất thì thường hay quên đi những giá trị tinh thần, quên đi cái nền tảng cơ bản của cuộc sống, đó chính là tình cảm con người. Nhưng rồi một tình huống bất ngờ xảy ra buộc người lính phải đối mặt:

“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn -đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”

Khi đèn điện tắt, cũng là khi không còn được sống trong cái xa hoa, đầy đủ về vật chất, người lính bỗng phải đối diện với cái thực tại tối tăm. Trong cái “thình lình”, “đột ngột” ấy, người lính vội bật tung cửa sổ và bất ngờ nhận ra một cái gì đó. Đó chẳng phải ai xa lạ mà chính là người bạn tri kỉ năm xưa của mình đây hay sao? Con người ấy không hề biết được rằng cái người bạn tri kỉ, tình nghĩa, người bạn đã bị anh ta lãng quên luôn ở ngoài kia để chờ đợi anh ta. “Người bạn ấy” không bao giờ bỏ rơi con người, không bao giờ oán giận hay trách móc con người vì họ đã quên đi mình. Vầng trăng ấy vẫn rất vị tha và khoan dung, nó cũng sẵn sàng đón nhận tấm lòng của một con người biết sám hối, biết vươn lên hoàn thiện mình. Cuộc đời mỗi con người không ai có thể đoán biết trước được. Không ai mãi sống trong một cuộc sống yên bình mà không có khó khăn, thử thách. Cũng như một dòng sông, đời người là một chuỗi dài với những quanh co, uốn khúc. Và chính trong những khúc quanh ấy, những biến cố ấy, con người mới thật sự hiểu được cái gì là quan trọng, cái gì sẽ gắn bó với họ trong suốt hành trình dài và rộng của cuộc đời. Dường như người lính trong bài thơ đã hiểu được điều đó!

“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng”

Khi người đối mặt với trăng, có cái gì đó khiến cho người lính áy náy dù cho không bị quở trách một lời nào. Hai từ “mặt” trong cùng một dòng thô: mặt trăng và mặt người đang cùng nhau trò chuyện . Người lính cảm thấy có cái gì “rưng rưng” tự trong tận đáy lòng và dường như nước mắt đang muốn trào ra vì xúc động trước lòng vị tha của người bạn “tri kỉ” của mình . Đối mặt với vầng trăng, bỗng người lính cảm thấy như đang xem một thước phim quay chậm về tuổi thơ của mình ngày nào, nơi có “sông” và có “bể”. Chính những thước phim quay chậm ấy làm người lính trào dâng nhưng nỗi niềm và những giọt nước mắt tuôn ra tự nhiên, không chút gượng ép nào! Những giọt nước mắt ấy đã phần nào làm cho người lính trở nên thanh thản hơn, làm tâm hồn anh trong sáng lại. Một lần nữa những hình tượng trong tuổi thơ và chiến tranh được láy lại làm sáng tỏ những điều mà con người cảm nhận được. Cái tâm hồn ấy, cái vẻ đẹp mộc mạc ấy không bao giờ bị mất đi, nó luôn lặng lẽ sống trong tâm hồn mỗi con người và nó sẽ lên tiếng khi con người bị tổn thương. Đoạn thơ hay ở chất thơ mộc mạc, chân thành, ngôn ngữ bình dị mà thấm thía, những hình ảnh đi vào lòng người.

Vầng trăng trong khổ thơ thứ ba đã thực sự thức tỉnh con người:

“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”

Khổ thơ cuối cùng mang tính hàm súc độc đáo và đạt tới chiều sâu tư tưởng và triết lí. “Trăng tròn vành vạnh” là vẻ đẹp của trăng vẫn viên mãn, tròn đầy và không hề bị suy suyển dù cho trải qua biết bao thăng trầm. Trăng chỉ im lặng phăng phắc, trăng không nói gì cả, trăng chỉ nhìn, nhưng cái nhìn đó đủ khiến cho con người giật mình. Ánh trăng như một tấm gương để cho con người soi mình qua đó, để con người nhận ra mình để thức tỉnh lương tri. Con người có thể chối bỏ, có thể lãng quên bất cứ điều gì trong tâm hồn anh ta . Nhưng dù gì đi nữa thì những giá trị văn hoá tinh thần của dân tộc cũng luôn vậy bọc và che chở cho con người.

“Ánh trăng” đã đi vào lòng người đọc bao thế hệ như một lời nhắc nhở đối với mỗi người: Nếu ai đã lỡ quên đi, đã lỡ đánh mất những giá trị tinh thần qúy giá thì hãy thức tỉnh và tìm lại những giá trị đó. còn ai chưa biết coi trọng những giá trị ấy thì hãy nâng niu những kí ức quý giá của mình ngay từ bây giờ, đừng để quá muộn. Bài thơ không chỉ hay về mắt nội dung mà còn có những nét đột phá trong nghệ thuật. Thể thơ năm chữ được vận dụng sáng tạo, các chữ đầu dòng thơ không viết hoa thể hiện những cảm xúc liền mạch của nhà thơ. Nhịp thơ biến ảo rất nhanh, giọng điệu tâm tình đã gây ấn tượng mạnh trong lòng người đọc.

Phân tích bài thơ Ánh trăng – Mẫu 6

Nhà văn Nguyễn Tuân có lần từng nói: “Thơ là mở ra một cái gì mà trước câu thơ trước bài thơ ấy dường như vẫn còn bị phong kín” vì vậy mỗi một sáng tác thơ ca đều phải mở ra một điều gì đấy mới mẻ về tư tưởng về nội dung về nghệ thuật trong tâm trí của người đọc. Nếu Lí Bạch đã từng nâng chén cùng với trăng sáng trên cao để thấm thía nỗi cô đơn mình với bóng là ba, nếu Nguyễn Du đã để vầng trăng là nhân chứng cho mối lương duyên của Thúy Kiều – Kim Trọng, thì chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng coi trăng như một người bạn tri kỷ, thân thiết “Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”. Cũng viết về vầng trăng, hình tượng vốn bấy lâu đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận của thi ca, nhưng bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy vẫn khơi gợi trong tâm hồn của mỗi độc giả những cảm xúc mới mẻ, sâu sắc và nhiều ý nghĩa.

Nguyễn Duy tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh năm 1948, ông là một nhà thơ chiến sĩ, đã từng tham gia phục vụ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Sáng tác tiêu biểu là tập thơ Ánh trăng, một trong những tập thơ đánh dấu son quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Duy.

Ánh trăng được sáng tác ở thành phố Hồ Chí Minh, vào năm 1978, ba năm sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước. Người lính chiến từ giã chiến trường trở về giữa phố thị, sống trong cảnh hòa bình, đất nước đổi mới, trong lúc đó dường như sự đủ đầy vật chất, cuộc sống bộn bề đã khiến con người ta vô tình quên đi những năm tháng gian khổ nhưng ân tình thủy chung. Để khi yên tĩnh dưới ánh trăng, nhà thơ mới bừng tỉnh nhận ra…

Trong 2 khổ thơ đầu mạch cảm xúc của Nguyễn Duy hướng về những kỷ niệm trong quá khứ, sự gắn bó của của vầng trăng trong từng bước đi của cuộc đời nhà thơ.

“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với biển
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỷ”

Ngay từ khổ thơ đầu thì nhà thơ đã mở ra trong một dòng hoài niệm hết sức tha thiết về tuổi ấu thơ của chính mình bằng nhịp thơ đều đặn, với những câu thơ 5 chữ ngắn gọn, đầy cảm xúc. Đó là lời của một người lính từng đi qua chiến tranh gian khổ này về sống giữa Sài Gòn xa hoa, người lính ấy hồi tưởng về tuổi thơ, về thời trai tráng chinh chiến sa trường. Nếu lúc nhỏ cuộc đời của cậu bé Nguyễn Duy gắn bó mật thiết với đồng ruộng, với dòng sông tươi mát, với vùng biển bao la, thì khi lớn lên vào cuộc chiến, cuộc sống của nhà thơ lại tiếp tục gắn bó sâu sắc với thiên nhiên núi rừng, như Tố Hữu nói trong Việt Bắc “Rừng che bộ đội rừng vây quân thù”. Thế nhưng dẫu hoàn cảnh, điều kiện sống có đổi thay thì duy chỉ có một thứ chẳng hề thay đổi ấy là vầng trăng trên cao, vầng trăng ấy trong lòng của tác giả đã trở thành tri âm, tri kỷ, là người bầu bạn trong những năm tháng hoa niên, trong từng bước hành quân chiến đấu. Trăng chia sẻ những nỗi vui buồn, những niềm gian khó, đi đến đâu trăng theo đến ấy, thân thương, gần gũi vô cùng.

Sự gắn bó, mối quan hệ và tình cảm của nhà thơ và vầng trăng được làm rõ qua mấy câu thơ.

“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”

Cuộc sống của tác giả, từ khi còn thơ ấu đến tuổi thanh niên vào chiến trường vẫn luôn gắn bó mật thiết và “trần trụi” với thiên nhiên, không che giấu bất kỳ điều gì, tác giả sống một cách đơn giản, bình yên và hồn nhiên như những loài cây cỏ với sức sống mạnh mẽ dẻo dai. Trên trời có ánh trăng sáng lúc nào cũng dõi mắt theo cuộc sống vui vẻ ấy của nhà thơ, thân thuộc đến độ Nguyễn Duy cứ “ngỡ”, cứ đinh ninh chắc nịch rằng bản thân mình sẽ chẳng bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa, vằng vặc trên cao mà mình vẫn xem là tri kỷ suốt mấy mươi năm cuộc đời kia.

“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”

Thế nhưng những cái “ngỡ” thường khó có thể duy trì vì cuộc đời vốn biến đổi không ngừng, bởi vật chất xưa nay luôn quyết định ý thức. Rời chiến trường, rời quê hương với những đồng ruộng, sông bể quê mùa, nhà thơ vào giữa phố thị, được sống trong một cuộc sống dư dả, xa hoa. Nếu buổi trước kia phải vật vạ, mai phục nơi rừng sâu rậm rạp, phải chân lấm tay bùn với ánh đèn dầu mờ ảo thì nay cuộc sống đã đổi thay, “ánh điện cửa gương”, đều là những thứ mới mẻ, dễ khiến người ta ham thích và sống sung sướng mãi rồi cũng quen đi. Bất chợt nhà thơ chẳng biết từ lúc nào đã quên khuấy đi cái ánh sáng nhàn nhạt dịu nhẹ đến từ thiên nhiên, đến từ vầng trăng mà mình vẫn hằng coi là tri kỷ. Không biết là do cuộc sống quá tất bật, bộn bề, hay lòng người vô tâm, bỏ quên kỷ niệm son sắt xưa cũ mà nay thấy vầng trăng ngự trên trời, cũng chẳng còn trân quý, chỉ là “người dưng qua đường”. Nói đến đây bỗng thấy thật xót xa, buồn tủi cho vầng trăng kia quá, từng một thời sát cánh, chia sẻ vui buồn từ đồng quê đến rừng già, từ ấu thơ đến trưởng thành, ấy mà chỉ vài năm ngắn ngủi, vài ánh điện lạ lẫm mọi thứ đã đổi thay.

“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”

Giữa sự trớ trêu và buồn tủi như thế, bỗng một tình huống bất ngờ xảy đến – mất điện, căn phòng tối om, khiến người lính vốn quen với ánh điện sáng trưng sửng sốt và hoang mang. Ông buộc phải tìm một nguồn sáng khác, cánh cửa mở ra, vầng trăng tròn “đột ngột” chiếu thẳng vào căn phòng tăm tối, chiếu thẳng vào tâm hồn của nhà thơ khiến ông giật mình.

“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng”

Vầng trăng và nhà thơ dường như đối diện với nhau một cách trực tiếp và thẳng thắn nhất, mặt đối mặt, bao kỷ niệm ùa về ùa về trong tâm trí của tác giả như bão tố khiến đôi mắt này “rưng rưng” nước mắt, nào là vầng trăng tri kỷ vẫn một lòng một dạ sắt son giữa trời xanh, xa hơn nữa là hình ảnh cánh đồng, bờ biển thuở ấu thơ, con sông xanh mát. Và có lẽ nhớ nhất chính là hình ảnh cánh rừng, hình ảnh những năm tháng chiến đấu đầy gian khổ nhưng giàu những kỷ niệm không thể nào quên. Mà chỉ duy nhất một vầng trăng tri kỷ, vẫn bầu bạn, vẫn sẻ chia, vẫn dõi theo bước chân người lính chiến không rời.

“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”

Đối diện với trăng, nhà thơ dường như bị lép vế, bởi sự xấu hổ vì lỗi lầm vô tâm, nỡ bỏ quên những ân tình trong quá khứ, để chạy theo cuộc sống xô bồ tấp nập, theo “ánh điện cửa gương”, tách biệt với thiên nhiên, quên cả tri kỷ mà người đã từng “ngỡ không bao giờ quên”. Trăng không hờn trách, không chỉ trích, trăng vẫn im lặng soi sáng, phủ lên nhà thơ thứ ánh sáng đẹp đẽ và nhân hậu. Điều ấy càng khiến con người ta thêm “giật mình”, thêm ngỡ ngàng, thậm chí là bàng hoàng về bản thân, sự im lặng đôi lúc chính là liều thuốc hữu hiệu, khiến chúng ta phải tự soi xét lại. Sự bao dung, dịu dàng và thủy chung của vầng trăng khiến nhà thơ hiểu ra được nhiều điều, có lẽ cái “giật mình” ấy chính là sự tỉnh ngộ. Tỉnh ngộ để tìm lại bản thân, để sống tốt hơn, để nhớ lại và trân quý những gì tốt đẹp trong quá khứ, để không sống vô tình, vô nghĩa, vầng trăng chính là một tấm gương sáng về lòng thủy chung của người tri kỷ, để người lính soi vào và suy ngẫm lại về bản thân mình suốt những năm qua đã sống thực sự nhân nghĩa hay chưa.

Vầng trăng xưa nay vốn đã rất quen thuộc với con người, trăng chiếu rọi xuống những ánh sáng nhàn nhạt, dịu nhẹ như người bạn, người thân, người tri kỷ sẵn sàng sẻ chia, ôm ấp và đồng hành với con người trên mọi nẻo đường. Ánh trăng của Nguyễn Duy là một bài thơ dẫu câu từ có vẻ đơn giản, mộc mạc nhưng lại hàm súc những ý nghĩa lớn, ấy là bài học về sự ghi nhớ những ân tình trong quá khứ, là lời khuyên, là tấm gương về lối sống nhân nghĩa, luôn trân quý, biết ơn những người, những cảnh vật xưa cũ. Bởi dù đó có là những điều quá vãng, nhưng mãi luôn là những giá trị quan trọng xây dựng nên một tâm hồn, một cuộc đời, dễ dàng lãng quên đồng nghĩa với việc vô tâm, vô cảm với cuộc đời.

Phân tích bài thơ Ánh trăng – Mẫu 7

Cát trắng” và “Ánh trăng” là hai tập thơ của Nguyễn Duy, nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Một hồn thơ tươi trẻ tỏa mát bóng tre, như con sóng vỗ dòng sông thơ ấu phảng phất hương vị đồng quê:

“Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
Níu váy bà đi chợ Bình Lâm
Bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
Và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trầm
“.

(Đò Lèn)

Tre Việt Nam”, “Hơi ấm ổ rơm”, “Ánh trăng”, “Đò Lèn“… là những bài thơ nổi tiếng của Nguyễn Duy. Bài thơ “Ánh trăng” rút trong tập thơ cùng tên, được tác giả viết vào năm 1978, tại Thành phố Hồ Chí Minh, 3 năm sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Bài thơ như một lời tâm sự chân thành: Vầng trăng không chỉ là vẻ đẹp thiên nhiên đất nước mà nó còn gắn bó với tuổi thơ, với những ngày kháng chiến gian khổ. Vầng trăng đối với mỗi chúng ta không bao giờ có thể quên và đừng cố tình lãng quên.

Nếu như trong bài thơ “Tre Việt Nam” câu thơ lục bát có khi được tách ra thành 2 hoặc 3 dòng thơ để tạo nên hiệu quả nghệ thuật biểu đạt gây ấn tượng thì ở bài thơ “Ánh trăng” này lại có một nét mới. Chữ đầu của dòng thơ, câu thơ không viết hoa. Phải chăng nhà thơ muốn cho cảm xúc được dào dạt trôi theo dòng chảy của thời gian, kỉ niệm?

Hai khổ thơ đầu nói về vầng trăng của tuổi thơ và vầng trăng thời chiến tranh. Vầng trăng tuổi thơ trải rộng trên một không gian bao la: “Hồi nhỏ sống với đồng – với sông rồi với bể”. Hai câu thơ 10 tiếng, gieo vần lưng (đồng – sông); từ “với” được điệp lại 3 lần nhằm diễn tả một tuổi thơ đi nhiều, được hạnh phúc cảm nhận những vẻ đẹp kì thủ của thiên nhiên, từng được ngắm trăng trên đồng quê, ngắm trăng trên dòng sông và ngắm trăng trên bãi bể. Tuổi thơ của chúng ta dễ có mấy ai được cái cớ ấy như nhà thơ? Thuở bé nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng chỉ được ngắm trăng nơi sân nhà: “Ông trăng tròn sáng tỏ – Soi rõ sân nhà em… (Trăng sáng sân nhà em). Tuổi thơ được ngắm trăng thích thế, như một chút hoài niệm xa vời.

Hai câu thơ tiếp theo nói về hồi máu lửa, trăng với người lính, trăng đã thành “tri kỉ”:

“hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ.”

“Tri kỉ”: biết người như biết mình, bạn tri kỉ là người bạn rất thân, hiểu biết mình. Trăng với người lính, với nhà thơ trong những năm ở rừng thời chiến tranh đã trở thành đôi bạn tri kỉ – “Người chiến sĩ nằm ngủ dưới trăng / Gối khuya ngon giấc bên song trăng nhòm” (Hồ Chí Minh). Giữa rừng khuya sương muối, người chiến sĩ đứng chờ giặc tới “Đầu súng trăng treo” (Chính Hữu). Nẻo đường hành quân của người chiến sĩ nhiều đêm đã trở thành “nẻo đường trăng dát vàng”. Trăng đã chia sẻ ngọt bùi hân hoan trong niềm vui thắng trận với người lính tiền phương. Đất nước trải qua những năm dài máu lửa, trăng với anh bộ đội đã vượt lên mọi tàn phá hủy diệt của bom đạn quân thù:

“Và vầng trăng, vầng trăng Đất nước
Vượt qua quầng lửa, mọc lên cao”.

(Phạm Tiến Duật)

Các tao nhân xưa thường “đăng lâu vọng nguyệt”, còn anh bộ đội cụ Hồ một thời trận mạc đã nhiều phen đứng trên đồi cao, hành quân vượt núi cũng say sưa ngắm vành trăng cao nguyên. Thật là thú vị khi đọc vần thơ Nguyễn Duy vì nó đã mở ra trong lòng nhiều người một trường liên tưởng: “hồi chiến tranh ở rừng – vầng trăng thành tri kỉ”.

Khổ thơ thứ hai như một lời nhắc nhở của tác giả về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu. Lại một vần lưng nữa xuất hiện – một ẩn dụ so sánh làm nổi bật chất trần trụi, chất hồn nhiên người lính những năm tháng ở rừng. Đó là cốt cách của các anh:

“Trần trụi với thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ”

Vầng trăng là biểu tượng đẹp của những năm tháng ấy, đã trở thành “vầng trăng tri kỉ”, “vầng trăng tình nghĩa” ngỡ như không bao giờ có thể quên. Một ý thơ làm động đến đáy tâm hồn, như một sự thức tỉnh lương tâm đối với những kẻ vô tình: “Ngỡ không bao giờ quên – Cái vầng trăng tình nghĩa”.

Sự thay đổi của lòng người thật đáng sợ. Hoàn cảnh sống đổi thay, con người dễ thay đổi, có lúc dễ trở nên vô tình, có kẻ dễ trở thành “ăn ở bạc”. Từ ở rừng, sau chiến thắng về thành phố, được trưng diện và xài sang: ở buyn-đinh, cao ốc, quen ánh điện, cửa gương… Và “vầng trăng tri kỉ”, “vầng trăng tình nghĩa” đã bị người lãng quên, dửng dưng. Cách so sánh thấm thía làm chột dạ nhiều người:

“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường
.”

Trăng được nhân hóa, lặng lẽ đi qua đường, trăng như người dưng đi qua, chẳng còn ai nhớ, chẳng còn ai hay. Người có lương tâm, lương tri mới biết sám hối. Biết sám hối để tự hoàn thiện nhân cách, tự vươn lên, hướng tâm hồn về ánh sáng và cái cao cả. Không đao to búa lớn, không đại ngôn, mà trái lại, giọng thơ thầm thì như trò chuyện, giãi bày tâm sự, nhà thơ đang trò chuyện với mình. Chất trữ tình của thơ ca trở nên sâu lắng, chân thành.

Cũng như dòng sông có thác ghềnh, có quanh co, uốn khúc. Cuộc đời cũng có nhiều biến động li kì. Ghi lại một tình huống “cuộc sống thị thành” của những con người mới ở rừng về thành phố, nhà thơ chỉ sử dụng 4 câu thơ 20 từ. Các từ “thình lình”, “vội”, “đột ngột” gợi tả tình thái đầy biểu cảm. Có nhà triết học nói: “Cuộc đời dạy ta nhiều hơn trang sách”. Vần thơ của Nguyễn Duy nói với ta rất nhiều:

“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn

Trăng xưa đã đến với người, vẫn “tròn”, vẫn “đẹp”, vẫn thủy chung với mọi người, mọi nhà, với thi nhân, với người lính. Người ngắm trăng rồi suy ngẫm trong bâng khuâng:

“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì dưng dưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng
“.

Nguyễn Tuân từng coi trăng là có nhân”, nhà thơ Xuân Diệu, trong bài “Nguyệt cầm” viết cách đây 60 năm cũng có câu: “Trăng thương, trăng hở, lời trăng gần. Trở lại với tâm trạng người lính trong bài thơ này. Một cái nhìn đầy áy náy xót xa: “Ngửa mặt lên nhìn mặt”. Hai chữ “mặt” trong vần thơ: mặt trăng và mặt người cùng “đối diện đàm tâm”. Trăng chẳng nói, trăng chẳng trách, thế mà người lính cảm thấy có cái gì rưng rưng. “Rưng rưng” nghĩa là vì xúc động, nước mắt đang ứa ra, sắp khóc. Giọt nước mắt làm cho lòng người thanh thản lại, trong sáng lại, cái tốt lành hé lộ. Bao kỉ niệm đẹp một đời người ùa về, tâm hồn gắn bó, chan hòa với thiên nhiên, với vầng trăng xưa, với đồng, với bể, với sông, với rừng, với quê hương đất nước. Cấu trúc câu thơ song hành, với biện pháp tu từ so sánh, với điệp từ cho thấy ngòi bút của Nguyễn Duy thật tài hoa:… “như là đồng, là bể, như là sông, là rừng“. Đoạn thơ hay ở chất thơ bộc bạch chân thành, ở tính biểu cảm, ở tính hình tượng và hàm súc, từ ngôn ngữ hình ảnh đi vào lòng người, khắc sâu điều nhà thơ muốn tâm sự với chúng ta một cách nhẹ nhàng mà thấm thía.

Khổ thơ cuối bài thơ mang tính hàm nghĩa độc đáo, đưa tới chiều sâu tư tưởng triết lí:

“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình.

“Tròn vành vạnh” là trăng rằm, một vẻ đẹp viên mãn. “Im phăng phắc” là im như tờ, không một tiếng động nhỏ. Vầng trăng cứ tròn đầy và lặng lẽ “kể chi người vô tình” là biểu tượng của sự bao dung độ lượng, của nghĩa tình thủy chung trọn vẹn trong sáng mà không hề đòi hỏi đền đáp. Đó cũng chính là phẩm chất cao cả của nhân dân mà Nguyễn Duy cũng như nhiều nhà thơ cùng thời đã phát hiện và cảm nhận một cách sâu sắc trong thời kì chiến tranh chống Mĩ.

Ánh trăng” là một bài thơ hay. Thể thơ năm chữ được vận dụng sáng tạo, tài hoa. Sự phong phú vần điệu, ngôn ngữ trong sáng, giọng thơ tâm tình vừa hướng nội vừa hướng ngoại. Nhà thơ tâm sự với người đọc những sâu kín nhất nơi lòng mình. Chất triết lí thâm trầm được diễn tả qua hình tượng “ánh trăng” đã tạo nên giá trị tư tưởng và nghệ thuật của bài thơ. Không nên sống vô tình. Phải thủy chung trọn vẹn, phải nghĩa tình sắt son với bạn bè, đồng chí, với nhân dân đó là điều mà Nguyễn Duy nói thật hay, thật cảm động qua bài thơ này.

Phân tích bài thơ Ánh trăng – Mẫu 8

Là một trong những nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Nguyễn Duy được biết đến với nhiều bài thơ hay, nhẹ nhàng, giàu cảm xúc chẳng hạn như Hơi ấm ổ rơm, Tre Việt Nam,… Một trong những bài thơ được nhiều người chú ý đó chính là bài thơ Ánh trăng. Bài thơ đã thể hiện được sự tài hoa của ông và thể hiện rõ chất suy tư trong thơ của Nguyễn Duy.

Bài thơ Ánh trăng được nhà thơ Nguyễn Duy viết năm 1978. Một lý do khiến bài thơ này được yêu thích là bởi nội dung bài thơ chứa đựng những tình cảm chân thành, mới lạ nhưng vô cùng sâu sắc. Ở hai khổ thơ đầu tiên, nhà thơ đã nhắc đến những kỉ niệm đẹp của tuổi thơ nơi quê nhà:

Hồi nhỏ sống với đồng
Với sông rồi với bể
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ

Từ những ngày còn ấu thơ, vầng trăng đã gắn bó với tác giả. Nói đến trăng là nói đến dòng sông, đồng ruộng, biển cả. Vậy cho nên dù có đi đến nơi đâu thì vầng trăng vẫn cứ gắn bó với con người. Con người đi một bước, vầng trăng cũng đi theo một bước. Vốn dĩ ban đầu trăng là bạn, tới khi nhà thơ đi lính, tham gia vào chiến trường gian khổ và ác liệt, vầng trăng mới trở thành tri kỉ đối với nhà thơ. Lúc này đối với nhà thơ, trăng trở thành người bạn không thể thiếu. Trăng cùng với nhà thơ chia sẻ những ngọt bùi, cùng nhà thơ vượt qua những khó khăn trong cuộc đời người lính. Cũng chính vì thế mà nhà thơ hiểu vầng trăng hơn. Nhà thơ miêu tả về vẻ đẹp của ánh trăng với một cảm xúc trẻ trung, tươi mới:

Trần trụi với thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa

Vẻ đẹp của trăng là một vẻ đẹp bình dị, chẳng cần khoác lên mình bất cứ thứ gì, trăng vẫn đẹp một cách vô tư và hồn nhiên. Cũng chính vì tượng trưng cho vẻ đẹp hồn nhiên nên trăng hòa mình vào thiên nhiên cỏ cây. Trăng đẹp như vậy, gần gũi như vậy trăng lại còn từng đồng cam cộng khổ với mình nên nhà thơ ngỡ rằng sẽ chẳng bao giờ có thể quên được vầng trăng tình nghĩa ấy.

Nhưng đó là nhà thơ nghĩ vậy còn thực tế cho thấy nhà thơ đã có lúc lãng quên vầng trăng:

Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường

Nếu như ở tuổi thơ của mình tác giả sống gần gũi với thiên nhiên, với sông, với bể, với rừng thì giờ đây môi trường sống của nhà thơ đã thay đổi rồi. Ông sống ở thành phố, nơi có những ánh đèn chiếu sáng được mọi ngõ ngách, mọi không gian. Chính vì ánh sáng của đèn điện, của cửa gương mà người ta không còn nhớ đến ánh sáng của vầng trăng nữa. Dần dần, vầng trăng tình nghĩa ngày nào bị đẩy lùi vào quên lãng. Vầng trăng tượng trưng cho kỉ niệm, cho kí ức về những năm tháng đấu tranh gian khổ, cho những người bạn của tuổi thơ, cho những người đồng đội đã từng cùng nhau vào sinh ra tử. Vậy mà giờ đây, trăng trở thành người dưng qua đường. Khi cuộc sống thay đổi, nó kéo theo sự thay đổi trong suy nghĩ của con người. Vầng trăng có lẽ sẽ cứ trôi vào trong dĩ vãng như vậy nếu như không có chuyện thành phố bị mất điện:

Phòng buyn đinh tối om
Vội bật tung cửa sổ
Đột ngột vầng trăng tròn

Trong khoảnh khắc đèn điện vụt tắt ấy, ánh sáng của vầng trăng hiện lên thật bất ngờ. Dường như cùng với ánh trăng, mọi kí ức năm xưa ùa về trong lòng tác giả. Đó là sông, là bể, là rừng, là những năm tháng nghèo đói, thiếu thốn nhưng vẫn luôn đong đầy hạnh phúc. Chính vì lẽ đó đã khiến cho nhà thơ trở nên rưng rưng:

Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì dưng dưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng

Trăng vẫn như vậy, tròn trịa và vẹn nguyên. Thứ duy nhất thay đổi đó chính là lòng người. Chính vì đối diện với vầng trăng mà vầng trăng không nói gì khiến cho nhà thơ cảm thấy hổ thẹn với chính bản thân mình. Đúng là vầng trăng tình nghĩa đã quá bao dung và độ lượng.

Với lối diễn đạt bình dị, bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy đã gây được nhiều xúc động đối với độc giả. Giọng thơ sâu lắng với thể thơ 5 chữ cô đọng khiến cho bài thơ chan chứa cảm xúc. Qua bài thơ này, chúng ta cũng nên nhìn lại cách sống của bản thân để sống tốt đẹp hơn.

Phân tích bài thơ Ánh trăng – Mẫu 9

Nguyễn Duy thuộc thế hệ làm thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Vừa mới xuất hiện, Nguyễn Duy đã nổi tiếng với bài thơ “Tre Việt Nam”. Bài “Hơi ấm ổ rơm” của anh đã từng đoạt giải thưởng báo Văn Nghệ. Hiện nay. Nguyễn Duy vẫn tiếp tục sáng tác. Anh viết đều và khỏe. “Ánh trăng” là một trong những bài thơ của anh được nhiều người ưa thích bởi tình cảm chân thành, sâu sắc, tứ thơ bất ngờ mới lạ.

Hai khổ thơ đầu tác giả nhắc đến những kỉ niệm đẹp:

“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng lị thành tri kỉ
.”

Trăng gắn bó với tác giả ngay từ thời thơ ấu. Trăng gắn với đồng ruộng, dòng sông, biển cả. Dù ở đâu, đi đâu trăng cũng ở bên cạnh. Nhưng phải đến khi ở rừng nghĩa là lúc tác giả sống trên tuyến đường Trường Sơn xa gia đình, quê hương vầng trăng mới thành “tri kỉ”. Trăng với tác giả là đôi bạn không thể thiếu nhau. Trăng chia ngọt sẻ bùi, trăng đồng cam cộng khổ.

Tác giả khái quát vẻ đẹp của trăng, khẳng định tình cảm yêu thương, quý trọng của mình đối với trăng:

“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa
.”

Trăng có vẻ đẹp vô cùng bình dị, một vẻ đẹp không cần trang sức, đẹp một cách vô tư, hồn nhiên. Trăng tượng trưng vẻ đẹp thiên nhiên nên trăng hóa vào thiên nhiên, hòa vào cây cỏ. “Vầng trăng tình nghĩa” bởi trăng từng chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ, bởi trăng là người bạn, tri âm, tri kỉ như tác giả đã nói ở trên. Ấy thế mà có những thời gian tác giả tự thú là mình đã lãng quên cái “vầng trăng tình nghĩa” ấy:

“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường
.”

Trước đây, tác giả sống với sông, với bể, với rừng, bây giờ môi trường sống đã thay đổi. Tác giả về sống với thành phố. Đời sống cũng thay đổi theo, “quen ánh điện”, “cửa gương”. “Ánh điện”, “cửa gương” tượng trưng cho cuộc sống sung túc, đầy đủ sang trọng… dần dần “cái vầng trăng tình nghĩa” ngày nào bị tác giả lãng quên. “Vầng trăng” ở đây tượng trưng cho những tháng năm gian khổ.

Đó là tình bạn, tình đồng chí được hình thành từ những năm tháng gian khổ ấy. “Trăng” bây giờ thành “người dưng”. Con người ta thường hay đổi thay như vậy. Bởi thế người đời vẫn thường nhắc nhau: “ngọt bùi nhớ lúc đắng cay”. Ở thành phố vì quen với “ánh điện, cửa gương”, quen với cuộc sống đầy đủ tiện nghi nên người đời không thèm để ý đến“vầng trăng” từng là bạn tri kỉ một thời. Phải đến lúc toàn thành phố mất điện:

“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn
.”

“Vầng trăng” xuất hiện thật bất ngờ, khoảnh khắc ấy, phút giây ấy,… tác giả, bàng hoàng trước vẻ đẹp kì diệu của vầng trăng. Bao nhiêu kỉ niệm xưa bỗng ùa về làm tác giả cứ “rưng rưng” nước mắt:

“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì dưng dưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng
”.

Nguyễn Duy gặp lại ánh trăng như gặp lại người bạn tuổi thơ, như gặp lại người bạn từng sát cánh bên nhau trong những tháng năm gian khổ. Tác giả không dấu được niềm xúc động mãnh liệt của mình. “Vầng trăng” nhắc nhở tác giả đừng bao giờ quên những tháng năm gian khổ ấy, đừng bao giờ quên tình bạn, tình đồng chí đồng đội, những người đã từng đồng cam cộng khổ. chia ngọt sẻ bùi trong những tháng năm chiến đấu đầy gian lao thử thách.

Khổ cuối bài thơ, Nguyễn Duy đưa người đọc cùng đắm chìm trong suy tư, trong chiêm nghiệm về “vầng trăng tình nghĩa” một thời:

“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình.
… ”

Trăng vẫn thủy chung mặc cho ai thay đổi, vô tình với trăng. Trăng bao dung và độ lượng biết bao! Tấm lòng bao dung độ lượng ấy “đủ cho ta giật mình” mặc dù trăng không một lời trách cứ. Trăng tượng trưng cho phẩm chất cao quý của nhân dân, trăng tượng trưng cho vẻ đẹp bền vững của tình bạn, tình chiến đấu trong những tháng năm “không thể nào quên”.

“Ánh trăng” của Nguyễn Duy gây được nhiều xúc động đối với nhiều thế hệ độc giả bởi cách diễn tả bình dị như những lời tâm sự, lời tự thú, lời tự nhắc nhở chân thành. Giọng thơ trầm tĩnh, sâu lắng. Tứ thơ bất ngờ, mới lạ. “Ánh trăng” còn mang ý nghĩa triết lí về sự thủy chung khiến người đọc phải “giật mình” suy nghĩ, nhìn lại chính mình để sống đẹp hơn, nghĩa tình hơn.

Phân tích bài thơ Ánh trăng – Mẫu 10

Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Sau chiến tranh, Nguyễn Duy tiếp tục làm thơ và thơ ông ngày càng trở nên đậm đà với một phong cách, giọng điệu “quen thuộc mà không nhàm chán”.

Thơ Nguyễn Duy giản dị, gần gũi song đầy suy tư, chiêm nghiệm triết lí sâu sắc về cuộc đời và con người. Bài thơ “Ánh trăng” là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ đó của Nguyễn Duy.Tác phẩm được viết vào năm 1978, ba năm sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Qua bài thơ, Nguyễn Duy muốn lời nhắc nhở, thức tỉnh người đọc thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa, thủy chung cùng quá khứ, thức dậy trong tâm hồn người lính lòng trung hiếu vẹn tròn với cách mạng, với nhân dân về những năm tháng gắn bó với thiên nhiên, với đất nước.

Bài thơ là một câu chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian từ quá khứ đến hiện tại. Dòng xúc cảm của nhà thơ cũng men theo dòng tự sự này mà bộc lộ tâm tư, suy ngẫm chiêm nghiệm. Trước hết, bài thơ mở ra những kỉ niệm đẹp, tình cảm gắn bó giữa con người và vầng trăng trong quá khứ xa xôi:

Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ
trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa

Với giọng thơ tâm tình, thủ thỉ, tác giả đã gợi lên những kỉ niệm của một quãng thời gian dài từ khi còn nhỏ cho tới lúc trưởng thành trở thành người lính trong chiến tranh. Tất cả đều thấm đẫm ánh trăng. “Hồi nhỏ” gắn mình với thiên nhiên như với đồng ruộng, với sông bể của quê hương. Lớn lên trở thành người lính xông pha trận mạc gắn mình với rừng núi bao la, bát ngát.

Trong cuộc ấy, con người sống chan hòa với thiên nhiên, bình dị, ấm áp, hiền hòa. Và vầng trăng “tri kỉ”, “tình nghĩa” đã minh chứng cho sự gắn kết giữa con người với thiên nhiên, vũ trụ. Ở đây, Trăng được nhân hóa như con người và trở thành người bạn tuyệt vời cùng với con người: Trăng chia sẻ mọi vui buồn, gian khó, đồng cam cộng khổ xoa dịu những vết thương của chiến tranh bằng thứ ánh sáng dịu hiền nên trở thành người bạn “tri kỉ”, tri âm.

Con người sống “trần trụi với thiên nhiên”, “hồn nhiên như cây cỏ”, một cuộc sống thanh thản, giản dị và thỏa lòng. Và trăng với người sống chan hòa, gắn bó đằm thắm “tình nghĩa” với nhau. Vì vậy, lòng đã tự hẹn với lòng bằng một tấm lòng thủy chung, tình nghĩa, son sắt: “bao giờ quên”. Nhưng từ “ngỡ” như vừa thể hiện niềm xót xa, tiếc nuối, ân hận; lại vừa báo hiệu trước sự đổi thay một tình nghĩa đáng lẽ cần phải trân trọng.

Nếu như ở hai khổ thơ đầu, tác giả đưa người đọc trở về với quá khứ xa xăm, thì đến với khổ ba, Nguyễn Duy lại đã đưa người đọc trở về với hiện tại trong sự tác động của hoàn cảnh đến con người, khiến con người lãng quên vầng trăng:

Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường

Thành phố là một địa điểm khác, hoàn toàn mới mẻ, đối lập với không gian sống hồi nhỏ và khi còn là người lính trên chiến trường. Hình ảnh “ánh điện cửa gương” là hình ảnh hoán dụ, biểu tượng cho cuộc sống đủ đầy, tiện nghi, khép kín trong những căn phòng hiện đại nơi phồn hoa đô thị, rời xa với thiên nhiên.

Từ đó, nhà thơ đã diễn tả sự thay đổi tình cảm của con người: “Vầng trăng tri kỉ, tình nghĩa” kia đã trở thành “người dưng qua đường”. Vầng trăng đi qua ngõ nhưng con người hờ hững, thờ ơ, không còn nhận ra trăng từng là người bạn tri kỉ, tình nghĩa một thời nữa.

Câu chuyện tâm tình được kể ngắn gọn, súc tích, mộc mạc, giản dị mà chân thành; những câu chữ đầu dòng thơ không viết hoa đã diễn tả dòng suy tư miên man không dứt của nhà thơ trước sự chảy trôi của thời gian, năm tháng và sự thay đổi của lòng người trước cuộc sống tiện nghi.

Tưởng chừng như Trăng cứ thế mà chìm khuất đi mãi mãi, người với Trăng sẽ chẳng còn cơ hội mà gặp gỡ nhau. Bởi trước phồn hoa đô hội, dưới ánh sáng cửa gương, đèn điện, dưới sự bận bịu, lo toan cho cuộc sống của con người thì Trăng sẽ trở nên nhạt nhòa, chìm khuất nhưng nó đã có dịp bừng sáng lên khi một tình huống bất ngờ xảy đến, để rồi đánh thức biết bao nhiêu là suy ngẫm, kỉ niệm dội về trong lòng thi nhân:

Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn

Nếu ở các khổ thơ trước, giọng thơ đều đều, chậm rãi, miên man trong những kỉ niệm tươi đẹp của quá khứ thì đến khổ bốn, giọng thơ đã đột ngột cất cao, thể hiện sự choáng ngợp, bất ngờ trước sự xuất hiện đột ngột của vâng trăng trước khung cửa sổ.

Mất điện, theo một lẽ tự nhiên khi con người chỉ tìm tới nơi có ánh sáng, hành động phản xạ như một thói quen “vội bật tung cửa sổ” và con người đã vô tình bắt gặp “vầng trăng tròn” tình nghĩa năm nào. Nghệ thuật đảo ngữ đã đẩy từ “đột ngột” lên đầu câu thơ, nhấn mạnh đến sự ngỡ ngàng, ngạc nhiên, bàng hoàng của con người khi bắt gặp vầng trăng. Vầng trăng tròn vành vạnh, chan chứa tình nghĩa vẫn luôn dõi theo, đồng hành cùng con người, vẫn luôn lặng lẽ tỏa sáng không hề hao khuyết.

Còn con người thì lãng quên vầng trăng nên khi bắt gặp vầng trăng mới cảm thấy bất ngờ, đột ngột đến như vậy. Mọi khoảng lặng xung quanh rất cần cho lúc này, mọi thứ như ngừng trôi đi, nhường chỗ cho hai tâm hồn gặp gỡ:

Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì dưng dưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng

Nhà thơ lặng lẽ đối diện với trăng “Ngửa mặt lên nhìn mặt” và ngậm ngùi “rưng rưng” như trực trào nước mặt sắp khóc, vừa vui mừng, vừa nghẹn ngào không nói được thành lời. Từ “mặt” ở cuối câu thơ đầu là từ nhiều nghĩa, tạo nên sự đa nghĩa của ý thơ: Nhà thơ đối diện với vầng trăng, người bạn tri kỉ mà mình đã lãng quên.

Người đối diện với trăng, trăng đối diện với người hay chính là quá khứ đối diện với hiện tại, thủy chung tình nghĩa đối diện với sự bạc bẽo, vô tình. Đối diện với trăng, nhà thơ như soi thấy cả mình trong đó, như được sống lại với những năm tháng gắn bó với thiên nhiên “đồng, sông, rừng, bể”.

Vì thế, đã làm cho con người nhà thơ “rưng rưng” xúc động. Sự xúc động ấy vừa là niềm vui khi được sống lại với quá khứ; lại vừa là giọt nước mắt của sự ăn năn, cảm thấy hổ thẹn, ân hận về sự đổi thay của chính mình. Giọng thơ chuyển từ sự bất ngờ, đột ngột chuyển sang xúc động “rưng rưng”. Điệp ngữ “như là”, kết hợp với biện pháp liệt kê hình ảnh “đồng – sông – rừng – bể” đã khiến nhịp thơ trở nên trầm lắng, chậm rãi và những lớp sóng của hoài niệm xa xăm cứ từ đâu ùa về thật xúc động thiêng liêng.

Từ hồi tưởng đến hiện tại, từ hiện tại tới xúc động rưng rưng và cuối cùng lắng dần vào trong những suy ngẫm, chiêm nghiệm. Đó là những phút giây bừng ngộ của tâm hồn nhà thơ mà cũng chính là lời nhắn nhủ thiết tha mà Nguyễn Duy muốn gửi gắm trong cuộc đời:

Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình.

Suốt chiều dài bài thơ, Trăng được miêu tả với rất nhiều những định ngữ khác nhau như: trăng tri kỉ, trăng tình nghĩa, vầng trăng tròn và cuối cùng kết tinh thành “Trăng cứ tròn vành vạnh”. Điều đó đã cho thấy, trăng trở thành biểu tượng cho sự bất biến, vĩnh hằng, không thay đổi; biểu tượng cho sự tròn đầy, thủy chung, trọn vẹn của thiên nhiên tươi đẹp trong quá khứ, trong hiện tại và cả tương lai, cho dù lòng người đổi thay, khiếm khuyết “vô tình”.

Hình ảnh ánh trăng được nhân hóa với thái độ “im phăng phắc” gợi cho chúng ta liên tưởng tới cái nhìn nghiêm khắc như trách móc, nhắc nhở con người về thái độ “vô tình” bạc bẽo, lãng quên của chính mình. Nhưng đồng thời thái độ “im phăng phắc” đó của trăng cũng chất chứa cả sự bao dung, nhân từ, độ lượng của người bạn thủy chung, tình nghĩa. Bởi dù lòng người thay đổi nhưng trăng vẫn dõi theo người, vẫn lặng lẽ tỏa sáng, vẫn cứ “tròn vành vạnh”.

Dòng thơ cuối dồn nén biết bao nhiêu là cảm xúc trong cái “giật mình” của con người. Chính sự im lặng của trăng đã làm cho con người phải “giật mình” thức tình, hay đó chính là cái “giật mình” của nhân cách, của lương tâm, là lời sám hối chân thành để rửa sạch tội lỗi, để tâm hồn trở nên trong sạch và sống tốt đẹp hơn.

Lời thơ chuyển từ “vầng trăng tròn vành vạnh” sang hình ảnh “ánh trăng” chất chứa nhiều ý nghĩa khái quát: nếu như vầng trăng tròn là để nói về quá khứ thủy chung, tình nghĩa vẹn nguyên thì “ánh trăng” lại để nói đến vầng hào quang của quá khứ, ánh sáng của lương tâm, của đạo đức soi rọi xua tan đi những bóng tối của sự lãng quên, bội bạc và làm con người thức tỉnh, tâm hồn trở nên trong sáng hơn, đẹp đẽ hơn.

Vì thế, ánh trăng của Nguyễn Duy là một thứ vầng trăng mang đầy tính nhân văn, nhân bản sâu sắc. Nó trở thành một bài học không chỉ dành riêng cho những người lính mà còn có ý nghĩa với tất cả mọi người, mọi thời đại để rồi từ đó, tự mỗi người trong mỗi chúng ta sẽ tự đối diện với chính mình, với quá khứ xem mình đã sống ra sao, như thế nào…

Bài thơ kết hợp hài hòa, tự nhiên giữa biểu cảm và tự sự, tạo nên như một câu chuyện riêng, một lời tâm sự chân thành, một lời tự nhắc nhở có giọng trầm tĩnh mà sâu lắng. Kết cấu và giọng điệu làm nổi bật chủ đề và tạo sức truyền cảm cho bài thơ.

Hình ảnh thơ vừa cụ thể, vừa khái quát, mang ý nghĩa biểu tượng sâu xa và chất chứa chiều sâu suy ngẫm, triết lí. Các câu thơ liền mạch, không dùng dấu câu, không viết hoa đầu dòng (trừ chữ cái đầu mỗi khổ thơ) như diễn tả dòng tâm tư triền miên, thiết tha, sâu lắng.

Tóm lại, qua bài thơ, người đọc thấy được những ẩn ý sâu xa và những bài học mang tầm triết lí sâu sắc mà nhà thơ muốn gửi gắm tới người đọc, đó là thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thủy chung trong quá khứ.

Phân tích bài thơ Ánh trăng – Mẫu 11

Nguyễn Duy nhà thơ có nhiều sáng tác gần gũi, mộc mạc. Bài thơ “Ánh trăng” của tác giả được sáng tác năm 1978 tại thành phố Hồ Chí Minh bài thơ mượn những hình ảnh vô tri vô giác đánh thức và làm lay động cảm xúc của con người.

Bài thơ Ánh trăng mở đầu bằng hình ảnh ánh trăng thân thuộc, gắn bó với những kỉ niệm đẹp gắn bó với tuổi thơ, với thời gian diễn ra chiến tranh ác liệt:

Hồi nhỏ sống với đồng
Với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ.

Hình ảnh “ánh trăng” có thể nói đã trở thành biểu tượng đẹp trong tuổi thơ của tác giả, gắn bó với kỉ niệm tuổi thơ đẹp và khó quên. Ánh trăng nhẹ nhàng lan tỏa từ cánh đồng quê hương, từ dòng sông bến nước nơi giúp nuôi dưỡng tâm hồn của mỗi con người.

Đến thời gian khi chiến tranh vất vả, ác liệt thì ánh trăng từ người bạn tuổi thơ đã chuyển sang thành người bạn tri âm thủy chung, son sắt. Tác giả Nguyễn Duy tinh tế khi nhân hóa ánh trăng thành một người bạn tri kỉ của những anh bộ đội tham gia chiến tranh. Sự gắn bó giữa ánh trăng và người bộ đội thật đáng quý trọng biết bao. Khổ thơ tiếp theo tác giả đã biến ánh trăng trở nên gần gũi và sắt son:

Trần trụi giữa thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa

Trong bất kì hoàn cảnh nào thì “ánh trăng” vẫn vẹn nguyên, phóng khoáng khiến cho tác giả có cảm giác “không bao giờ quên”. Vầng trăng tỏa ánh sáng thể hiện tình nghĩa, chung thủy luôn nhắc nhở tác giả không được quên đi hình ảnh đáng nhớ và thủy chung đó. Nhưng tác giả đã lãng quên đi hình ảnh vầng trăng:

Từ hồi về thành phố
Quen đèn điện của gương
Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường

Trở về cuộc sống sau chiến tranh, hòa bình trở lại, cuộc sống với ánh đèn điện hiện đại tiện nghi đã khiến cho tác giả quên mất đi ánh trăng chính là quên đi người bạn tri kỉ ngày xưa. Trong hai khổ thơ sau giọng thơ chùng xuống, cách dùng từ “người dưng” gợi lên cảm giác xót xa.

Con người và ánh trăng từng là bạn tri kỉ, tri âm thân thiết nhưng giờ đây tác giả vô tâm, hờ hững xem như kẻ qua đường. Phép so sánh “như người dưng” đã khiến người đọc cảm thấy đau đớn và xót xa. Tình huống đặc biệt đã khiến tác giả nhận ra ngỡ ra nhiều điều:

Thình lình đèn điện tắt
Phòng buyn-đinh tối om,
Vội bật tung cửa sổ,
Đột ngột vầng trăng tròn.

Đến khi “đèn điện tắt” tác giả giật mình nhận ra căn phòng tối om từ, sự chuyển biến nhanh chóng khiến mọi thứ trở nên thay đổi. Cửa sổ “bật tung”, tác giả cảm thấy hổ thẹn khi “đột ngột vầng trăng tròn”. Câu thơ này thể hiện rằng từ xưa đến này trăng vẫn tròn như thế, chỉ có con người vô tâm mới không nhận ra.

Đến khổ thơ này, tác giả nhận ra sự vô tâm, quên lãng của bản thân đối với quá khứ, ánh trăng từng là người bạn thân thiết một thời gắn bó giờ đây ta lãng quên thật hổ thẹn. Đến khổ thơ cuối:

Vầng trăng tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình

Phép đối lập song song đủ làm cho lương tâm con người nhận ra được nhiều điều. Tác giả dùng từ “vành vạnh”, “phăng phắc” để người đọc nhận ra sự nghiêm khắc của ánh trăng. Cuộc sống có nhiều sự thay đổi từ chiến tranh đến cuộc sống hiện đại mặc dù con người thay đổi, ánh trăng xưa vẫn tròn vẫn bao dung và rộng lượng với con người. Khổ thơ cuối để lại những sự xúc động, nghẹn ngào về ánh trăng thời hiện đại.

Giọng điệu bài thơ tâm tình, tự sự như là tự sự hoài niệm về quá khứ của tác giả gắn bó với trăng, người bạn thân thiết bên nhau từ tuổi thơ cho tới kháng chiến. Ánh trăng của tác giả như nhắc nhở với con người về quãng thời gian chiến tranh khi người lính gắn bó với thiên nhiên.

Bài thơ nhắc nhở về tính thủy chung, biết yêu thương và quý trọng nhau, sống không được quên đi quá khứ xưa.

Phân tích bài thơ Ánh trăng – Mẫu 12

Trong thơ ca, trăng vốn là nguồn cảm hứng sáng tác vô tận cho các thi nhân. Ta biết đến ánh trăng làm bạn với Bác trong ngục; ta biết đến một vầng trăng huyền bí của Hàn Mặc Tử. Và ta còn phải nhắc đến trăng trong tác phẩm Ánh trăng của nhà thơ Nguyễn Duy. Vầng trăng tự nó như một thứ thuốc thử, một lời nhắc nhở đối với mỗi con người về cách sống, cách ứng xử trong cuộc đời.

Mở đầu bài thơ, là hình ảnh xa xôi mà bình dị giữa con người và trăng:

Hồi nhỏ sống với đồng
Với sông rồi với bể
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ

Lời thơ mộc mạc tựa như một lời thủ thỉ, tâm tình, kết hợp với điệp từ “với” cho thấy tuổi thơ đầy giản dị, mộc mạc, gắn bó với cỏ cây, thiên nhiên. Và trong những người bạn ấy, không thể thiếu vầng trăng mát lành, luôn ở bên cạnh chia sẻ mọi buồn vui khó khăn trong suốt quãng đời tuổi thơ, bởi vậy, “vầng trăng thành tri kỉ”.

Vầng trăng hơn một người bạn thấu hiểu và cảm thông cho những cảm xúc, những khó khăn, vất vả mà bạn phải trải qua. Trăng hiện lên trần trụi gần gũi, không chút toan tính, vụ lợi: trần trụi với thiên nhiên/ hồn nhiên như cây cỏ. Giữa trăng và người là hai hình tượng sóng đôi, song song đồng hành với nhau, nếu như trăng xuất hiện thì còn người lại luôn bị che khuất đi. Để rồi cuối khổ thơ thứ hai, con người phải giật mình, thảng thốt thốt lên:

Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa

Những tưởng những năm tháng bên nhau, cùng chia sẻ gian khổ ngọt bùi, con người sẽ không thể quên được người bạn tri kỉ của mình. Nào ngờ cuộc đời có quá nhiều nỗi truân chuyên, nhiều điều lo lắng khiến ta vụt mất những điều giản dị và ý nghĩa mà không hề hay biết. Chữ “ngỡ” đặt đầu câu như một lời độc thoại thảng thốt, một lời ăn năn, sám hối muộn màng của con người. Hạnh phúc bình dị, đơn sơ thuở nào bị cái hào nhoáng, xa hoa vật chất tầm thường che khuất mất, để ta vô tình lãng quên những điều thiêng liêng:

Từ hồi về thành phố
Quen ánh điện cửa gương
Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường

Khổ thơ thứ ba, vầng trăng đã được nhân cách hóa thành một con người cụ thể. Ngỡ rằng vầng trăng ấy vẫn là tri kỉ, tình nghĩa bền chặt nào ngờ giờ đây lại chẳng khác gì người dưng nước lã. Thời gian có sức tàn phá thật khủng khiếp, nó có thể biến một tình cảm vốn thiêng liêng, cao đẹp, nay trở thành những mối quan hệ như chưa hề quen biết. Sự thật phũ phàng bởi thời gian, bởi lòng người thay đổi khó mà lường trước được.

Trong vòng xoáy của đồng tiền, con người mải mê lao vào tìm kiếm những xa hoa, dục vọng, để rồi khi: “Thình lình đèn điện tắt/ phòng buyn đinh tối om” , khi ấy con người mới có thời gian tự chiêm nghiệm, suy ngẫm lại. Nguyễn Duy đã lấy một sự việc hết sức bình thường, mất điện, để biến nó thành nút thắt, đẩy bài thơ lên đến cao trào, cũng chính bởi phút giây đó con người mới có cơ hội tự suy nghĩ về chính những ứng xử của mình trong cuộc sống.

Vội bật tung cửa sổ
Đột ngột vầng trăng tròn

Cả khổ thơ là những chuỗi hành động gấp gáp, liên tiếp nhau. Khi con người ta mất đi ánh sáng nhân tạo, lập tức phải tìm đến một nguồn sáng khác – ánh sáng tự nhiên. Và đột ngột họ gặp lại người bạn năm xưa. Họ ngạc nhiên, ngỡ ngàng, đến nỗi chẳng nói thành lời. Trăng vẫn vậy, vẫn vẹn tròn, thủy chung và biết bao cảm xúc ùa về trong tác giả: “Ngẩng mặt lên nhìn mặt/ có cái gì rưng rưng/ như là đồng là bể/ như là sông là rừng”.

Trong khoảnh khắc lặng im bất chợt, mặt người đối diện với mặt trăng, kí ức của những ngày gắn bó lại ùa về trong tác giả. Là đồng, sông, bể, rừng những người bạn gắn bó trong suốt thuở thiếu thời và những năm tháng kháng chiến kiên cường, gian khổ. Khuôn mặt của trăng chính là quá khứ ân nghĩa, thủy chung mà con người đã vô tình lãng quên. Qua bao nhiêu thăng trầm, biến động trăng vẫn vẹn nguyên, vẫn thủy chung độ lượng với con người:

Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình.

Khổ thơ vận dụng hàng loạt các từ láy: vành vạnh, phăng phắc, mỗi từ láy lại mang đến những giá trị biểu cảm khác nhau. Từ láy vành vạnh cho thấy sự ân tình, thủy chung vẹn nguyên của vầng trăng từ quá khứ đến hiện tại. Từ láy phăng phắc lại là cái im lặng giúp cảnh tỉnh con người, cái nhìn đầy nghiêm khắc để con người nhận ra sự bội bạc của chính mình.

Nhưng đồng thời sự im lặng ấy cũng cho thấy thái độ bao dung, độ lượng của vầng trăng, hay rộng ra là của quá khứ, của nhân dân thủy chung tình nghĩa. Cái giật mình ở cuối bài cho thấy sự hối lỗi, đã nhận ra những sai lầm của bản thân. Thật tinh tế và khéo léo, Nguyễn Duy đã sử dụng hình ảnh vầng trăng, cùng với quá trình nhận thức của nhân vật trữ tình để làm bật lên tư tưởng, chủ đề của tác phẩm.

Bằng giọng điệu tâm tình tự nhiên, chân thành, hình ảnh giàu tính biểu tượng bài thơ như một lời nhắc nhở đến muôn thế hệ. Nhắc nhở về lối sống ân tình thủy chung, biết ơn quá khứ, những người đã hi sinh để cho chúng ta có cuộc sống bình yên hạnh phúc như ngày hôm nay. Bài thơ ra đời đã lâu, nhưng vẫn giữ mãi giá trị nhân văn tốt đẹp của nó.

Phân tích bài thơ Ánh trăng – Mẫu 13

Bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy ra đời năm 1978, năm đất nước đã bước vào công cuộc kiến thiết xây dựng đất nước. Cuộc chiến tranh đã đi qua nhưng dư âm của nó vẫn còn vang vọng trong tâm hồn nhiều thế hệ, như một quy luật cuộc sống sau chiến tranh với những bộn bề lo toan xây dựng đã làm người ta quên đi quá khứ, quên đi ân nghĩa của bao người. “Ánh trăng” ra đời trong dòng cảm hứng sám hối, tự truyện của văn học sau những năm 1978.

Ánh trăng trong văn học luôn là đề tài gắn với lãng mạn. Với Nguyễn Duy, ánh trăng biểu đạt một hàm nghĩa mới, mang dấu ấn của tình cảm thời đại. “Ánh trăng” là hình ảnh của quá khứ, là nhân dân, người lính, lí tưởng chiến đấu, “Ánh trăng” được viết theo thể thơ năm chữ gồm sáu khổ và bố cục ba phần tương ứng với ba giai đoạn, ba hoàn cảnh khác nhau trong cuộc đời người lính. Hai khổ đầu là sự gắn bó giữa người lính với ánh trăng. Hai khổ sau là những lãng quên, hai khổ cuối cùng là lời tự thú, tự nhắc nhở mình không được lãng quên quá khứ.

Hình ảnh gắn liền với một quá khứ nghĩa tình gắn bó là ánh trăng tri kỉ: “Vầng trăng tình nghĩa”. Trong quá khứ ấy, người lính sống với vầng trăng, bầu bạn với vầng trăng. Thời gian của quá khứ được tính theo trình tự trước sau: hồi nhỏ: những kỉ niệm mộc mạc mà đáng nhớ, hồi chiến tranh ở rừng. Hai đoạn đó nghĩa tình gắn liền với trăng, vầng trăng là tri kỉ, tình nghĩa.

Ý nghĩa hàm ẩn trong những cách gọi tên vầng trăng đã nói lên mọi quan hệ gần gũi như máu thịt của người lính và vầng trăng – với nhân dân. Cuộc chiến tranh đã trôi qua, người lính trở về với những bộn bề cuộc sống hàng ngày. Những bộn bề đã che khuất vầng trăng.

Từ hồi về thành phố
Quen ánh điện, cửa gương
Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường

Hình ảnh đối lập với vầng trăng, ánh điện cửa gương – là hình ảnh của tiện nghi vật chất. Sự có mặt của những tiện nghi đã che lấp quá khứ, che lấp kí ức. Sự gắn bó với vầng trăng, nhưng tình nghĩa với vầng trăng đã lùi vào quên lãng: “Vầng trăng đi qua ngõ /như người, dưng qua đường”.

Chỉ đến khi hình ảnh của những tiện nghi vật chất mất đi và sự bình lặng, trong đường tròn không thay đổi của vầng trăng tri kỉ xưa xuất hiện thì quá khứ bỗng như là một nhắc nhở, tràn về trong kí ức. Người đang lãng quên quá khứ. Trăng giờ như gương mặt của quá khứ, gương mặt sáng trong, giản dị, nghiêm khắc soi tỏ tâm hồn người:

Ngửa mặt lên nhìn mặt
Có cái gì rưng rưng
Như là đồng, là bể
Như là sông, là rừng.

Trăng mang gương mặt của quá khứ: gương mặt sáng trong giản dị và nghiêm khắc soi tỏ tâm hồn người.

Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình.

Trăng hình như chưa bao giờ thay đổi “cứ tròn vành vạnh”. Cả bài thơ, sáu lần sử dụng hình ảnh vầng trăng để nói về quá khứ: vầng trăng khẳng định ý nghĩa tròn đầy như sự thuỷ chung trọn vẹn của nhân dân của những người đã từng nhường cơm sẻ áo cùng người lính.

Ánh trăng không thay đổi bao nhiêu thì nỗi day dứt trong tâm hồn người lính ấy càng sâu sắc bấy nhiêu. Tâm trạng tự thú, sám hối ở cuối bài thơ là lời nhắn nhủ với chính mình: không được lãng quên quá khứ, không được vô ơn. Cảm hứng tự thú và sám hối cũng đã được Nguyễn Minh Châu diễn tả trong truyện ngắn “Bức tranh” khắc họa bức chân dung sám hối của nhà văn đồng thời khẳng định bản chất tốt đẹp, hướng thiện vẫn luôn sống mãi trong tâm hồn người lính.

“Ánh trăng” của Nguyễn Duy cũng là một hình thức để tỏ lòng sám hối. Bài thơ kết thúc bằng một lời nhắc nhở chính mình của những người trong cuộc. Với “Ánh trăng”, nhà thơ đã khắc họa hình ảnh của nhân dân, một nhân dân thủy chung, độ lượng.

Phân tích bài thơ Ánh trăng – Mẫu 14

Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Ông đã có những tác phẩm hay, để lại ấn tượng trong lòng bạn đọc. Một trong những bài thơ tiêu biểu là “Ánh trăng”, bài thơ được sáng tác năm 1978. Bài thơ như một lời nhắc nhở người đọc thái độ sống ân nghĩa thủy chung qua một hình thức nghệ thuật độc đáo, đặc sắc.

Trước hết, Ánh trăng gợi lên trong lòng người đọc những kỉ niệm sâu sắc, ấm áp và nghĩa tình của người chiến sĩ.

“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến trang ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ”.

Tuổi thơ êm đềm, hiền lành và bình dị gắn với đồng, sông, bể đã nuôi dưỡng tâm hồn của người chiến sĩ. Điệp từ “với” lặp lại 3 lần thể hiện sự gắn bó, liên hồi và da diết của cảm xúc, nhịp thơ. Vầng trăng đã trở thành tri kỉ, thành người bạn tâm tình, gần gũi gắn bó với tuổi thơ tươi đẹp, trong sáng. Cứ như thế, trăng theo nhịp bước người chiến sĩ lớn dần theo năm tháng, đến cả những nơi gian khổ, hiểm nguy nhất, là trong chiến tranh:

“Trần trụi với thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa”.

Vầng trăng mang vẻ đẹp đơn sơ, mộc mạc nguyên thủy như vẻ đẹp của thiên nhiên, khiến cho nhân vật trữ tình cảm nhận dường như sẽ không bao giờ có thể quên cái vầng trăng tri kỉ-tình nghĩa ấy. Vậy là vầng trăng không còn là vật vô tri vô giác mà đã trở thành người bạn, người đồng chí, đồng tình có linh hồn, nhịp đập và hơi thở riêng.
Nhưng vầng trăng không chỉ gắn liền với những kỉ niệm, không chỉ đẹp lung linh, tươi mới mà còn là lời nhắc nhở thầm kín của tác giả với người đọc về lối sống nghĩa tình, thủy chung.

“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện của gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”.

Cuộc sống thay đổi, con người cũng phải thay đổi mình để bắt nhịp với cuộc sống hiện đại để theo kịp nhịp nhảy của thời đại, nhưng một điều đáng buồn là vầng trăng tri kỉ-tình nghĩa năm nào giờ không còn nữa mà đã trở thành người xa lạ, dửng dưng. Chính cuộc sống hiện đại, văn minh và những tiện nghi đã làm con người ta quên đi cái quá khứ khó nhọc mà anh hùng của mình, quên đi những gì bình dị, thiêng liêng nhất trong kí ức, đến nỗi giờ đây tất cả chỉ là người dưng nước lã, kẻ xa lạ, không quen biết. Một tình huống bất ngờ xảy ra và chính khoảnh khắc ấy đã làm nổi lên tất cả vấn đề mà nhà văn muốn gửi gắm:

“Thình lình đèn điện tắt
Phòng buyn-đinh tối om
Vội bật tung cửa sổ
Đột ngột vầng trăng tròn”.

Từ láy “thình lình” xuất hiện ở đầu khổ thơ đã diễn tả tình huống mất điện đột ngột vào ban đêm. Ba động từ “vội, bật, tung” để tìm ánh sáng đặt liền nhau đã diễn tả sự khó chịu, bức bối và hành động khẩn trương đi tìm nguồn sáng của con người. Hình ảnh vầng trăng tròn tình cờ và tự nhiên hiện ra giữa trời chiếu vào căn phòng tối om kia, vào khuôn mặt đang ngửa lên nhìn trời, nhìn trăng ấy. Từ láy “đột ngột” được lựa chọn rất đắt nhằm diễn tả một tình huống hết sức bất ngờ. khổ thơ giống như một nút thắt khơi gợi tâm trạng suy ngẫm cho người đọc:

“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì dưng dưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng”.

Vầng trăng xuất hiện thật bất ngờ dẫn đến sự đối mặt đầy xúc động. Ngửa mặt lên nhìn mặt diễn tả một động tác vừa trân trọng vừa thân mật. Điệp từ “mặt” xuất hiện hai lần trong một câu thơ nhấn mạnh sự giao cảm giữa trăng và người trong một tư thế tập trung, chú ý. Một cái nhìn trực diện và cảm xúc thiết tha dâng trào trong lòng nhà thơ, đó là cảm xúc về những kỉ niệm ấu thơ, những gì thân thiết, gần gũi êm đềm trong sáng mà bấy lâu dường như bị lu mờ, phai nhạt dưới ánh điện cửa gương. Hình ảnh vầng trăng gợi nhớ đến thiên nhiên, nơi con người đã đi qua, đã sống và gắn bó như máu thịt. Cảm xúc “rưng rưng” là cảm xúc nghẹn ngào, bồi hồi, xúc động như trực trào nước mắt của nhân vật trữ tình:

“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”.

Mạch cảm xúc suy tưởng của nhà thơ đã phát triển thành chiều sâu tư tưởng mang tính chất triết lí về trăng. Hình ảnh vầng trăng tròn vành vạnh biểu tượng cho quá khứ đẹp đẽ, vẹn nguyên, viên mãn, tròn đầy không bị phai nhạt. “ánh trăng im phăng phắc” là sự im lặng như tờ, không một lời trách cứ, mặc cho con người vô tình. Như vậy một cách hình tượng, nhà văn Nguyễn Duy muốn gửi đến thông điệp sắc về nhân sinh cho người đọc: con người có thể lãng quên quá khứ, thiên nhiên nghĩa tình nhưng vầng trăng, quá khứ luôn tròn đầy, viên mãn, rộng lượng, vị tha. Câu thơ có sự đối lập giữa trăng tròn vành vạnh và kẻ vô tình, giữa cái im lặng của trăng với sự giật mình, thức tỉnh của con người. Kết hợp với biện pháp nhân hóa, hình ảnh ẩn dụ và các từ láy “vành vạnh, phăng phắc” đã gợi lên chính xác sự tròn đầy của trăng, đồng thời gợi lên một không khí tĩnh lặng, đủ để xoáy sâu vào lòng người sự suy ngẫm, day dứt. Cái giật mình là cảm giác và phản xạ tâm lí của một con người biết suy nghĩ chợt nhận ra sự vô tình của bản thân và sự nông nổi trong cách sống của mình, cái giật mình của sự ăn năn, tự trách tự thấy mình cần phải thay đổi không được phản bội quá khứ.

Lời thơ kết hợp tự sự với trữ tình. Hình ảnh thơ bình dị, hàm súc, giàu sức gợi và mang nhiều ý nghĩa biểu tượng tất cả đã tạo nên một bài thơ hay, ám ảnh và giàu sức gợi.

Phân tích bài thơ Ánh trăng – Mẫu 15

Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ quân đội trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đau thương và oanh liệt của dân tộc. Bài thơ Ánh trăng được viết tại thành phố Hồ Chí Minh năm 1978, ba năm sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Trong cuộc sống hòa bình, một số người đã từng trải qua thử thách, gian khổ, từng chứng kiến sự hi sinh lớn lao của đồng đội và nhân dân, từng gắn bó sâu nặng với thiên nhiên nhưng đã vội quên những gian nan, cơ cực và những kỉ niệm thắm thiết nghĩa tình của một thời chưa xa.

Bài thơ là một lần “giật mình” nhìn lại của Nguyễn Duy. Nó có tác dụng thức tỉnh bao người trước cái điều vô tình ấy.

Ánh trăng trước hết là tiếng lòng, là sự tự vấn lương tâm của riêng Nguyễn Duy. Nhà thơ đứng giữa hôm nay mà suy ngẫm về thời đã qua và từ tâm trạng riêng, tiếng thơ ông cất lên như một lời nhắc nhở. Vầng trăng ở đây không chỉ là một hình ảnh cụ thể của đất trời mà còn là biểu tượng cho một quá khứ đẹp đẽ, là mối liên hệ giữa tâm tình riêng và ý nghĩa phổ biến rộng lớn, giữa nội dung cụ thể và tính khái quát của bài thơ.

Bài thơ không chỉ đề cập đến thái độ thờ ơ, quay lưng đối với những hi sinh, mất mát của thời chiến tranh mà còn là chuyện nghĩa tình, nhớ về cội nguồn, nhớ về những người đã khuất. Cao hơn nữa, Ánh trăng còn là lời nhắc nhở mỗi con người về lẽ sống chung thủy với chính mình.

Sự kết hợp khéo léo giữa tự sự với trữ tình đã tạo cho bài thơ dáng dấp của một câu chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian. Giọng điệu tâm tình được thể hiện bằng thể thơ năm chữ. Hai khổ thơ đầu là cảm xúc của nhà thơ về ánh trăng khi chiến đấu trong rừng. Khổ thứ ba là cảm xúc trước vầng trăng trong thành phố hòa bình. Nhịp thơ ở phần này tự nhiên, nhịp nhàng. Đến khổ thứ tư, giọng thơ thay đổi, thể hiện thái độ ngạc nhiên đến ngỡ ngàng của tác giả trước sự xuất hiện đột ngột của vầng trăng trong đêm mất điện. Giọng thơ trầm lắng, thiết tha ở hai khổ cuối rất hợp với sự hồi tưởng và suy tư lặng lẽ. Dòng cảm xúc trữ tình của nhà thơ cũng tuôn chảy theo những lời tự sự. Nhà thơ kể rằng:

“Hồi nhỏ sống với đồng,
Với sông rồi với bể;
Hồi chiến tranh ở rừng,
Vầng trăng thành tri kỉ.”

Nhà thơ tưởng không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa ấy. Thế mà từ hồi về thành phố ăn sung mặc sướng, quen sống giữa những tiện nghi hiện đại, mới chỉ có mấy năm mà đã nhìn vầng trăng tình nghĩa như người dưng qua đường.Sự việc bất thường ở khổ thơ thứ tư chính là tác nhân gợi nhớ để từ đó tác giả bộc lộ cảm xúc của mình.

“Thình lình đèn điện tắt,
Phòng buyn-đinh tối om,
Vội bật tung cửa sổ,
Đột ngột vầng trăng tròn.”

Ánh trăng toả sáng căn phòng. Chính vầng trăng xuất hiện bất ngờ trong bối cảnh ấy đã gây ấn tượng mạnh, thổi bùng nỗi nhớ về một thời máu lửa chưa xa.

Phân tích bài thơ Ánh trăng – Mẫu 16

Nguyễn Duy là nhà thơ trường thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Những sáng tác của ông đi vào lòng người đọc bởi sự nhẹ nhàng, gần gũi, mộc mạc của ngôn ngữ qua bài thơ “Hơi ấm ổ rơm”, “Tre Việt Nam”. Bài thơ “Ánh trăng” được rút ra từ tập thơ cùng tên, sáng tác năm 1978 tại thành phố Hồ Chí Minh đã khiến người đọc có cách nhìn nhận chân thực và sâu sắc hơn về cuộc sống, về quá khứ qua hình ảnh trung tâm “ánh trăng”.

Ánh trăng là hình ảnh xuyên suốt 4 khổ thơ, xâu chuỗi các dòng hoài niệm và suy nghĩ của một đời người về hiện tại và quá khứ. Có thể nói Nguyễn Duy đã rất tinh tế để xây dựng thành công hình tượng “vô tri vô giác” nhưng có sức mạnh đánh thức và lay động trái tim.

Bài thơ được mở đầu bằng hình ảnh ánh trăng thân thuộc, gần gũi, gắn với những kỉ niệm đẹp gắn bó với tuổi thơ, với năm tháng chiến tranh ác liệt:

Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ.

Có thể nói hình ảnh “ánh trăng” đã thành biểu tượng xuyên suốt tuổi thơ của tác giả, gắn bó với những kỉ niệm khó quên. Ánh trăng tinh khiết, dịu nhẹ lan tỏa từ cánh đồng mênh mông, từ dòng sông bến nước – nơi nuôi dưỡng tâm hồn của mỗi chúng ta.

Đến những năm tháng “hồi chiến tranh ở rừng” gian khổ, vất vả, ánh trăng từ kí ức tuổi thơ ấy đã thành “tri kỉ”, thành người bạn đồng hành, người bạn tâm tình đáng mến, thủy chung, son sắt. Có thể nói Nguyễn Duy đã rất khéo, rất tinh tế khi nhân hóa ánh trăng thành một người bạn tri kỉ của những anh bộ đội cụ hồ. Sự gắn bó quấn quýt, tình cảm chân thành và trong sáng giữa anh bộ đội và anh trăng thật đáng ngưỡng mộ.

Hai dấu mốc thời gian “hồi nhỏ” và “hồi chiến tranh” đã khiến cho ánh trăng trở nên gần gũi và nghĩa tình ở khổ thơ tiếp:

Trần trụi giữa thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa

Dù là ở đâu thì “ánh trăng” vẫn vẹn nguyên, gần gũi, phóng khoáng khiến cho tác giả có cảm giác “không bao giờ quên”, nhưng đó chỉ là “ngỡ” thôi. Vầng trăng tình nghĩa, chung thủy luôn là hình nhắc nhắc nhở tác giả không được phép quên đi.

Nhưng chính từ “ngỡ” ấy chính là dấu hiệu cho một sự rạn nứt, quên lãng ở khổ thơ tiếp theo

Từ hồi về thành phố
Quen đèn điện của gương
Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường

Cuộc sống đô thị phồn hoa với đèn điện, cửa gương, với tiện nghi đầy đủ đã khiến cho tác giả quên mất đi người bạn tri kỉ ngày xưa đó. Ở hai câu thơ sau của khổ thơ này, giọng thơ chùng xuống khiến người đọc nghèn nghẹn. Và đặc biệt cách dùng từ “người dưng” đã gợi lên cảm giác xót xa đến tột độ. Từng là bạn tri kỉ, từng là “người” ngỡ như không quên, nhưng giờ đây tác giả vô tâm, vô tình, hờ hững xem như kẻ qua đường, không hơn không kém. Phép so sánh đấy đã khiến cho tứ thơ xoáy sâu vào lòng người nhiều nuối tiếc, day dứt, xót xa cho một sự thay đổi.

Để rồi ở khổ thơ tiếp, tác giả đã tạo ra tình huống đặc biệt khiến tác giả nhận ra:

Thình lình đèn điện tắt
Phòng buyn-đinh tối om,
Vội bật tung cửa sổ,
Đột ngột vầng trăng tròn.

Đến khổ thơ này thì tứ thơ đã đột ngột thay đổi, có lẽ chính bản thân tác giả thay đổi lớn nên mới dẫn đến sự thay đổi bất ngờ của tứ thơ như thế này. Sau chiến tranh, tác giả trở về với cuộc sống thường ngày, bận rộn với thực tại và có thể đã “quên mất” quá khứ, quên mất người bạn tri kỉ ngày xưa đó. Chính cuộc sống đủ đầy hiện tại với đèn điện sáng trưng, ánh trăng trở nên mờ nhạt. Đến khi “đèn điện tắt” tác giả mới giật mình, thảng thốt nhận ra căn phòng tối om và nhận ra lương tâm mình đã thay đổi. Từ “thình lình” được tác giả dùng một cách độc đáo, có thể nói đây chính là “sự không vững” trong tâm hồn, một sự chuyển biến bất ngờ, nhanh chóng khiến mọi thứ trở nên không vững. Cửa sổ “bật tung”, có một điều khiến tác giả cảm thấy hổ thẹn “đột ngột vầng trăng tròn”. Câu thơ này có ý thơ rất lạ, nói đúng hơn là từ ngữ rất lạ, vầng trăng không thể “đột ngột” tròn được, bởi vốn dĩ từ xưa đến nay nó vẫn tròn như thế, chỉ có con người vô tâm mới không nhận ra điều đó.

Thực sự đến khổ thơ này, tác giả đã nhận ra sự vô tâm, hờ hững của bản thân đối với quá khứ, đối với “người bạn tri kỉ” một thời gắn bó. Với 4 câu thơ ngắn gọn, nhưng lại khiến người đọc thấy lương tâm của mình rung động lạ kì.

Đối diện với ánh trăng, tác giả nhận ra “có cái gì rưng rưng”, là ánh trăng rưng rưng hay là lòng người rưng rưng, có lẽ là cả hai. Một sự hội ngộ bất ngờ và đầy day dứt của tác giả. Ánh trăng vẫn vẹn nguyên, vẫn tròn đầy và thủy chung như xưa, chỉ có con người đổi thay.

Đến khổ thơ cuối, tứ thơ trở nên sắc nhọn:

Vầng trăng tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình

Một phép đối lập song song đủ khiến cho lương tâm của con người được thức tỉnh và ngộ ra nhiều điều. Cách dùng từ “vành vạnh”, “phăng phắc” đủ để người đọc nhận ra sự nghiêm khắc của ánh trăng khiến cho con người “giật mình”, thức tỉnh. Dù cuộc sống đổi thay, con người thay đổi, ánh trăng vẫn thế, bao dung và rộng lượng. Khổ thơ cuối đã gieo vào lòng người đọc nhiều cảm xúc khó tả và thức tỉnh những người đang dần lãng quên đi quá khứ.

Bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy với tứ thơ lạ, độc đáo, cách viết mới mẻ, hấp dẫn, từ ngữ “độc” và hơn hết là tình cảm của tác giả đã để lại trong lòng người đọc nhiều bài học sâu sắc nhất.

Phân tích bài thơ Ánh trăng – Mẫu 17

Nguyễn Duy là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Những sáng tác của ông đi vào lòng người đọc bởi sự chân thành, gần gũi và mộc mạc. Bài thơ “Ánh trăng” là một bài thơ rất hay của Nguyễn Duy, đó là lời nhắc nhở về những năm tháng chiến đấu gian lao của tác giả khi còn ở ngoài chiến trận gắn bó sâu sắc với thiên nhiên đất trời.

Bài thơ là mạch cảm xúc từ quá khứ đến hiện tại. Bài thơ mở đầu với hình ảnh ánh trăng gần gũi, thân thiết, gắn bó với những kỉ niệm tuổi thơ đẹp đẽ trong những năm tháng chiến tranh ác liệt:

Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ.

Đoạn thơ như một lời tâm sự hoài niệm về quá khứ gắn bó với trăng trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt của tác giả. Một cuộc sống hòa quyện với thiên nhiên, với đất trời “với sông, với bể”, một cuộc sống hết sức bình yên mà cũng không kém phần nhộn nhịp. Trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, sống trong rừng sâu, âm u quạnh vắng, trăng đã trở thành người bạn tri kỉ của tác giả.

“Trần trụi với thiên nhiên
….cái vầng trăng tình nghĩa”

Trăng đẹp giản dị, thuần khiết, không cần trang điểm, không cần sắc màu, trăng vẫn đẹp một cách vô tư và hồn nhiên như thế. Cứ ngỡ rằng sẽ chẳng bao giờ quên cái vầng trăng tri kỉ, vầng trăng tình nghĩa ấy, nhưng không phải thế:

“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”

Chiến tranh kết thúc, người lính rời chiến khu để về với cuộc sống phồn hoa, tấp nập chốn thị thành. Cuộc sống chốn phù du, hoa lệ với “ánh điện, cửa gương” dường như đã làm cho con người ta dễ dàng lãng quên quá khứ, dù đó là một quá khứ hết sức thân thuộc. Cuộc sống hiện đại ấy khiến cho con người dễ quên đi lời hứa sẽ mãi là “ánh trăng tình nghĩa” đã cùng nhau đi qua những năm tháng khốc liệt của chiến tranh. Trăng giờ chỉ là “người dưng” không quen biết. Giọng thơ như chùng xuống, như nghẹn lại, một cảm xúc khó tả khiến cho con người ta cảm thấy có lỗi.

Nhưng cuộc đời thường xoay vần, không có gì là tồn tại mãi mãi cả. Nhà thơ đã tạo ra một tình huống đặc biệt khiến tác giả nhận ra:

“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”

Đoạn thơ mang đến một cảm xúc đột ngột. Những động từ, tính từ mạnh đã gợi tả sức mãnh liệt trong dòng cảm xúc của nhà thơ “thình lình”, “vội”, “bật tung”, “đột ngột” chính là sự thay đổi trạng thái cảm xúc của con người khi thành phố bị mất điện. Trăng vẫn tròn như vậy, vẫn vẹn nguyên chỉ có con người là thay đổi, là không nhận ra hay vô tình quên đi mất những kỉ niệm đẹp với ánh trăng.

Chính trong hoàn cảnh ấy những kỉ niệm cũ lại ùa về, nhà thơ bỗng thấy được người bạn tri kỉ năm xưa trong một niềm vui vỡ òa:

“Ngửa mặt lên nhìn mặt

…như là sông là rừng”

Mặt đối mặt với vầng trăng hiền hòa, kí ức về đồng, sông, bể, rừng khiến tác giả chạnh lòng yếu đuối, một cảm giác xót xa tủi hờn khi vô tình quên mất ánh trăng.

Khổ thơ cuối mang tính hàm nghĩa độc đáo, đưa tới chiều sâu tư tưởng triết lí:

“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”

Trăng vẫn thế, vẫn “tròn vành vạnh”, vẫn cứ im lặng không một lời trách móc con người nhưng con người lại vô tình lãng quên trăng để rồi khi gặp lại trăng phải giật mình hối lỗi. Sự đối lập giữa trăng và người đủ để khiến cho lương tâm của con người thức tỉnh. Khổ thơ như lời nhắc nhở nhẹ nhàng mà thấm thía, sâu sắc cho những ai đang dần lãng quên đi quá khứ.

Với giọng điệu tâm tình, thủ thỉ, “Ánh trăng” của Nguyễn Duy như một lời tự nhắc nhở về những năm tháng gian lao của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước. Bài thơ là lời nhắc nhở con người phải biết sống tình nghĩa, không được lãng quên quá khứ.

Phân tích bài thơ Ánh trăng – Mẫu 18

Nguyễn Duy là một nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước . Thơ của ông đầy ắp cảm xúc trữ tình và giàu triết lí sâu sắc. “Ánh trăng” sáng tác năm 1978 – ba năm sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng. Đây như một lời nhắc về những năm tháng khó khăn, cuộc đời người lính gắn bó với quê hương, thiên nhiên, đất nước.

Bài thơ Ánh trăng như một câu chuyện kể theo trình tự thời gian hơn nữa bài thơ chỉ viết hoa chữ cái đầu mỗi khổ, cả bài chỉ có một dấu chấm việc này tạo nên sự liền mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình. Trước hết là hình ảnh vầng trăng trong ký ức của nhân vật trữ tình.

“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ”

Hồi là mốc thời gian đưa nhân vật trữ lình trở về với kí ức tuổi thơ. Điệp từ “với” kết hợp phép liệt kê: đồng, sông, bể nhấn mạnh mối quan hệ gắn bó giữa con người và thiên nhiên, mở ra một không gian mênh mông, cao rộng. Cong người có thể ngắm trăng ở bất cứ nơi đâu. Phép nhân hoá giúp trăng trở thành một con người, một người tri kỉ. Theo thời gian, con người cũng bắt đầu trưởng thành rồi trở thành người thành người lính chiến đấu trong quân ngũ. Trong những đêm trèo đèo lội suối, băng rừng hay những đêm phục kích chờ giặc, trăng luôn đồng hành cùng người chiến sĩ dù bất cứ không gian nào.

“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”

Thuở ấy con người sống hồn nhiên, giản dị, chân thật, gắn bó với thiên nhiên như cây cỏ sông suối. Phép nhân hoá đã cho thấy trăng và người giờ đây không chỉ là người bạn tri kỉ mà đã trở thành người bạn tình nghĩa ngỡ như không thể quên, không thể tách rời.

Thời gian qua đi, con người giờ đây cũng thay đổi, hình ảnh vầng trăng hiện tại (năm 1978) trong suy nghĩ của tác giả cũng đã phai mờ theo năm tháng.

“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”

Chiến tranh kết thức, người chiến sĩ trở về với cuộc sống đời thường. Nhân vật trữ tình trong bài thơ này cũng trở về với cuộc sống của người dân thành phố, mải mê với những điều mới lạ, những thiết bị tân tiến “ ánh điện cửa gương” không còn nhớ tới quá khứ, tới người bạn tri kỉ hồi nào. Vầng trăng vẫn xuất hiện theo vòng tuần hoàn của thời gian nhưng giờ đây lại hoà cùng với ánh điện, mờ nhạt trong tâm tưởng người lính. Cuộc sống tiện nghi hiện đại đã khiến tâm hồn con người có chút đổi thay, vô tình lãng quên đi quá khứ, cố nhân.

“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”

Một hiện tượng xảy ra trong đời sống của người dân thành phố, khi ấy không gian tối om và theo bản năng họ tìm tới ánh sáng của vầng trăng của thiên nhiên vũ trụ. Từ láy “thình lình, đột ngột” cho thấy sự bất ngờ trong giây phút gặp lại cố nhân. Ánh sáng của trăng soi tỏ căn phòng tối, soi vào từng ngóc ngách tâm hồn con người, soi cả vào kí ức đã bị lãng quên của nhân vật trữ tình. Để từ đây, họ nhận ra mình đã từng là một kẻ vô tình vô nghĩa với trăng, với quá khứ, với nhân dân, đất nước. Hiện tượng mất điện không quá xa lạ với người dân thành phố nhưng có lẽ đây là cái cớ để tác giả thể hiện chủ đề, tư tưởng, bước ngoặt trong câu chuyện của nhân vật trữ tình.

“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì dưng dưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng”

Nghệ thuật ẩn dụ được tác giả sử dụng thành công khi để mặt người đối diện đàm tâm với mặt trăng. Ánh sáng soi tỏ tâm tưởng của nhân vật trữ tình giúp họ nhận ra những sai lầm của bản thân. Để từ đây có thể bộc lộ được cảm xúc rưng rưng, nghẹn ngào đang dâng trào trong lòng họ.

Khổ thơ cuối bài mang ý nghĩa biểu tượng của vầng trăng:

“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
kể chi người vô tình”

Hình ảnh trăng vừa mang nghĩa tả thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc cùng với đó là nghệ thuật nhân hoá ánh trăng trở thành một nhân chứng nghĩa tình , nghiêm khắc nhắc nhở con người về thái độ sống uống nước nhớ nguồn. Trăng bao dung độ lượng, không oán trách “ kể chi người vô tình” nhưng cũng khiến con người giật mình để nhìn lại bản thân đã là người vô tình vô nghĩa. Ở khổ thơ này ta thấy được hai hình ảnh song song mà đối lập: đối lập giữa cái tròn vành vạnh của trăng với sự hụt vơi trong lòng kẻ vô tình; đối lập giữa cái im phăng phắc của trăng và hành động giật mình của nhân vật trữ tình. Khổ thơ cuối bài mang ý nghĩa tư tưởng của vầng trăng đồng thời mang đầy tính triết lí, chủ đề của tác phẩm.

Bài thơ Ánh trăng thành công với giọng điệu tâm tình nhịp thơ trôi chảy tự nhiên mà sâu lắng, hình ảnh giàu giá trị gợi cảm mang tính triết lý sâu sắc. Qua đây tác giả muốn gửi tới tất cả mọi người, đặc biệt là thế hệ trẻ chúng ta một bài học về đạo lý: sống với hiện tại, nghĩ về tương lai và nhớ về quá khứ.

Phân tích bài thơ Ánh trăng – Mẫu 19

Nguyễn Duy là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ Thơ Nguyễn Duy đậm vẻ dung dị, hồn nhiên trong sáng nhưng lại thấm đẫm những chiêm nghiệm về cuộc đời khiến bạn đọc phải trầm tư sâu lắng, suy nghĩ chiêm nghiệm. Bài thơ Ánh trăng là bài thơ tiêu biểu cho phong cách của Nguyễn Duy, nó gợi nhắc con người đặc biệt là người lính nhớ về quá khứ gắn bó với thiên nhiên đất nước.

Bài thơ Ánh trăng được sáng tác năm 1978 in trong tập thơ cùng tên. Nguyễn Duy viết bài thơ Sau khi cuộc kháng chiến đã kết thúc, con người trở lại với cuộc sống hiện đại quên đi quá khứ sau lưng. Bài thơ ca ngợi thiên nhiên tươi đẹp, ánh trăng sáng gắn bó với người lính trong suốt những năm tháng trên chiến trường đồng thời nhắc nhở con người phải sống ân nghĩa thủy chung, giữ trọn đạo lý tốt đẹp.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh ánh trăng thiên nhiên của tuổi thơ bình dị in sâu trong kí ức nhà thơ. Giọng thơ đền đạn trầm ổn như kể về một câu chuyện tốt đẹp trong quá khứ.

“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ.”

Vầng trăng gắn bó với nhà thơ trong suốt quá khứ khi là một cậu bé. Hình ảnh trăng hiện lên cùng với “đồng, sông, bể”, cách gieo vần lưng làm cho câu thơ trở nên mềm mại uyển chuyển đồng thời thấy một tuổi thơ tươi đẹp mà tác giả gắn bó với thiên nhiên. Điệp từ “ với” càng khẳng định điều đó. Đến khi chiến tranh bùng nổ cậu bé năm nào trưởng thành và tham gia kháng chiến, vầng trăng cũng theo chân người lính trẻ, đồng hành với cậu từ những bước đầu gian khổ . Nhà thơ sử dụng từ “ hồi” để nhấn mạnh sự hồi tưởng về quá khứ khi có vầng trăng. Gắn bó suốt tuổi thơ cùng những năm tháng xông pha chiến trường, vầng trăng đối với người lính đã trở thành người bạn tri kỷ không thể thiếu.

Nhà thơ cũng đã bày tỏ tình cảm da diết của mình với vầng trăng tri kỉ:

“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa.”

Nhà thơ đã miêu là vầng trăng như một người bạn thực sự. Các từ “ trần trụi, hồn nhiên” thể hiện tính cách của vầng trăng là một người bạn chân thật và thẳng thắng như cây cỏ như thiên nhiên non mềm. Gắn bó với trăng như thế nhà thơ tưởng như sẽ không bao giờ quên đi ánh trăng, quên đi tình bạn tri kỉ thân thiện bao lâu nay. Như từ ngỡ đặt đầu câu như báo hiệu một chuyện gì không hay sẽ xảy ra. Chính nhân vật trữ tình đã quên đi ánh trăng tình nghĩa khi về với cuộc sống hiện đại:

“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện, cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”

Sau khi chiến tranh kết thúc, con người trở lại với đời sống hiện đại, trở lại với những cơ sở vật chất hiện đại “ ánh điện, cửa gương” thì dần quên đi cuộc sống gian khó của những ngày còn chinh chiến, con người mải tất bật với công việc , với nhịp sống nhanh, sống vội của người hiện đại nên đã quên đi vầng trăng tình nghĩa. Vậy nên vầng trăng đi qua ngõ thì như người dưng qua đường. Nghệ thuật nhân hóa cùng so sánh đã biến trăng thành một con người có tri giác . Và thật đau đớn thay khi vầng trăng tri kỉ, tình nghĩa kia giờ là người dưng nước lã không còn một mảnh quan hệ với con người.

Nguyễn Duy đã xây dựng một tình huống truyện trong thơ, tạo kịch tích, nút thắt cho câu truyện thơ về vầng trăng:

“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn.”

Từ láy thình lình được đặt lên đầu câu nhấn mạnh đây là một tình huống đặc biệt chưa có sự chuẩn bị trước khiến con người bất ngờ. Trong không gian sáng ánh đèn điện, thì con người không nhìn thấy trăng và khi đèn điện vụt tắt, phòng building tối om con người đã hành động theo bản năng tìm đến ánh sáng của tự nhiên đó là bật tung cửa sổ. Động từ mạnh vội, bật, tung được đặt cạnh nhau cho thấy hành động nhanh mang tính bộc phát của con người. Từ đột ngột cho thấy thái độ bất ngờ ngạc nhiên đến kinh ngạc của con người khi nhìn thấy ánh trăng. Và hình ảnh vầng trăng tròn xuất hiện như một điều hiển nhiên, trăng vẫn tròn vẫn đẹp nhưng lòng người đã đổi thay phai nhạt.

Sự xuất hiện đột ngột của vầng trăng làm cho bao nhiêu kỉ niệm của tuổi thơ ùa về khiến nhà thơ thấy có gì đó “ rưng rưng” muốn khóc:

“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng, là bể
như là sông, là rừng”.

Gặp lại người bạn xưa, quá khứ ùa về như dòng thác, nhà thơ không kiềm được lòng mình mà rưng rưng muốn khóc. Trong một câu thơ tác giả đã sử dụng hai từ “ mặt” để , mặt ở đây là mặt trăng hay mặt người bạn tri kỉ lâu năm không liên lạc, người bạn gọi nhớ về những ngày tháng tuổi thơ tươi đẹp những năm tháng chiến tranh gian khổ ác liệt đồng hành cùng ánh trăng xưa. Chính nhà thơ như nhận ra sự bạc bẽo vô tình của mình

Kết thúc bài thơ là một chiêm nghiệm sâu sắc của tác giả về vầng trăng về con người

“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình… ”

Trăng vẫn cứ tròn đầy trong trẻo, vẫn tròn vành vạnh. Từ láy vành vạnh như khẳng định sự nguyên vẹn của trăng khẳng định tình nghĩa khăng khít không phai nhạt theo thời gian của trăng mặc cho con người đã quên đi ánh trăng, quên đi tình nghĩa ngày nào. Ánh trăng như một người bạn nghiêm khắc nhưng bao dung. Dù người đã quên ánh trăng nhưng trăng vẫn ở đó mạng quá khứ nguyên vẹn thủy chung chờ đợi con người. Sự im lặng của trăng càng làm cho con người thấy được sự vô tình bạc bẽo của mình. Và cái giật mình kết thúc bài thơ là cái giật mình thức tỉnh lương tâm, tìm lại con người có tình nghĩa như phút ban đầu. Đó là cái giật mình đáng trân trọng mà con người cần có.

Ánh trăng dường như thoát ra khỏi câu truyện thơ đầy ý nghĩa của Nguyễn Duy để đến với độc giả, mỗi người đều có một ánh trăng riêng mình vô cùng chung thủy, tình nghĩa. Hình tượng ánh trăng sẽ mãi trường tồn cùng với tên tuổi Nguyễn Duy.

Đăng bởi: THPT Nguyễn Đình Chiểu

Chuyên mục: Tài Liệu Lớp 9

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button

Bạn đang dùng trình chặn quảng cáo!

Bạn đang dùng trình chặn quảng cáo!