Lớp 10

Phân tích đoạn trích Uy-lít-xơ trở về

Phân tích đoạn trích Uy-lít-xơ trở về để thấy được bức tranh hoành tráng, hào hùng của người Hy Lạp trong công cuộc chinh phục thiên nhiên và di dân mở đất.

Phân tích Uy-lít-xơ trở về gồm dàn ý chi tiết kèm theo 2 bài văn mẫu được THPT Nguyễn Đình Chiểu tổng hợp từ bài làm của các bạn lớp 10 trên toàn quốc. Qua đó giúp các bạn học sinh lớp 10 có thêm nhiều tư liệu tham khảo, trau dồi kiến thức để nhanh chóng nắm được nội dung tác phẩm.

Bạn đang xem: Phân tích đoạn trích Uy-lít-xơ trở về

Dàn ý phân tích Uy-lít-xơ trở về

I. Mở bài

– Giới thiệu tác giả Hô-me-rơ và sử thi Ô-đi-xê

– Khái quát vị trí và nội dung đoạn trích Uy-lít-xơ trở về: Thuộc khúc ca thứ 23, kể lại cuộc gặp gỡ, sum họp đầy thử thách nhưng cũng vô cùng hạnh phúc của hai vợ chồng Uy-lít-xơ và Pê-nê-lốp.

II. Thân bài

1. Sự trở về của Uy-lít-xơ trong bộ dạng kẻ hành khất.

a. Lời thông báo và thuyết phục của nhũ mẫu Ơ-ri-clê.

– Nhũ mẫu Ơ-ri-clê:

  • Hí hửng, reo cười thông báo về sự xuât hiện của Uy-lít-xơ
  • Thuyết phục nàng Pê-nê-lốp bằng bí mật vết sẹo ở chân Uy-lít-xơ
  • Lấy tính mạng ra để đánh cược với Pê-nê-lốp

→ Niềm vui mừng của người đầy tớ trung thành khi thấy chủ nhân trở về.

– Pê-nê-lốp:

  • Nửa tin nửa ngờ, cho rằng đó là một vị thần đã đến để giết bọn cầu hôn, còn Uy-lít-xơ đã chết.
  • Tỏ ra hoài nghi: Dù có sáng suốt đến đâu cũng không hiểu được hết ý định của thần linh bất tử.

→ Pê-nê-lốp thận trọng trong từng suy nghĩ.

b. Uy-lít-xơ trong bộ dạng kẻ hành khất.

– Pê-nê-lốp:

  • Lòng phân vân: Không biết nên đứng xa hỏi chuyện hay lại gần ôm lấy chồng mà hôn, khi thì đăm đăm âu yếm nhìn chồng lúc lại không nhận ra chồng trong bộ quần áo rách mướp.
  • Ngồi lặng thinh trên ghế hồi lâu.

→ Pê-nê-lốp rất thận trọng trong khi lòng cực kì xúc động.

– Uy-lít-xơ: Chờ đợi xem người vợ cao quý sẽ nói gì với mình.

→ Hồi hộp, mong chờ khoảnh khắc đoàn tụ

c. Lời trách móc của Tê-lê-mác

– Tê-lê-mác:

  • Ngay lập tức nhận cha
  • Trách móc mẹ tàn nhẫn, độc ác
  • Nghi ngờ sự sắt đá, cứng rắn của mẹ

→ Khát khao được đoàn tụ gia đình, trong sáng, hồn nhiên chưa hiểu hết được nỗi niềm sâu sa của mẹ

– Pê-nê-lốp

  • Thận trọng đáp lại lời con, bày tỏ sự kinh ngạc, phân vân của mình.
  • Tin chắc về sự đoàn tụ của gia đình bằng những dấu hiêu riêng.

→ Nàng thận trọng và luôn có niềm tin về hạnh phúc, đoàn tụ

– Uy-lít-xơ:

  • Mặc cảm về ngoại hình hiện tại: Hiện giờ cha còn bẩn thỉu, rách rưới nên mẹ con khinh ta.
  • Có niềm tin chắc chắn hai vợ chồng sẽ nhận ra nhau.

→ Uy-lít-xơ cao quý, nhẫn nại

2. Thử thách và đoàn tụ.

a. Cuộc đấu trí giữa Uy-lít-xơ và Pê-nê-lốp

– Lời thử thách:

  • Pê-nê-lốp ngầm ngỏ ý thử thách với Uy-lít-xơ qua lời nói với con: Cha mẹ sẽ nhận được nhau một cách dễ dàng bởi cha mẹ có những dấu hiệu riêng chỉ hai người biết
  • Uy-lít-xơ chấp nhận lời thử thách ấy: Nghe nàng nói vậy, Uy-lit-xơ cao quý và nhẫn nại mỉm cười.

→ Sự tế nhị, khéo léo, thông minh của cả Uy-lít-xơ và Pê-nê-lốp

– Quá trình thử thách

  • Pê-nê-lốp: Sai người khiêng giường, bắt đầu thử thách.
  • Uy-lít-xơ miêu tả tỉ mỉ, cặn kẽ chiếc giường, giải mã bí mật của nó, thuyết phục hoàn toàn Pê-nê-lốp

→ Sự thông minh, khôn khéo của Pê-nê-lốp và sự nhạy bén của Uy-lít-xơ

– Ý nghiã biểu tượng của chiếc giường cưới:

  • Chứa đựng những bí mật, dấu hiệu riêng chỉ hai người biết.
  • Là phép thử để chứng minh thân phận vị khách và làm dịu đi kịch tính trong cảnh sum họp.
  • Gợi lại kỉ niệm tình yêu, hạnh phúc của hai người
  • Biểu tượng của sự thủy chung trong tình nghĩa vợ chồng.

b. Cảnh sum họp.

– Pê-nê-lốp:

  • Bủn rủn chân tay, nước mắt chan hòa, ôm lấy cổ chồng
  • Giải thích, phân trần với chồng về thái độ lạnh lùng của mình
  • Nàng nhìn chồng không chán mắt, ôm cổ chồng không nỡ buông rời.

– Uy-lít-xơ

  • Ôm lấy người vợ thân yêu, thủy chung
  • Xúc động khóc nước mắt dầm dề.

→ Cảm sum họp vô cùng cảm động, thể hiện tình yêu chân thành, thủy chung, sâu nặng của vợ chồng Uy-lít-xơ.

3. Nghệ thuật

– Miêu tả tâm lí nhân vật cụ thể, chi tiết qua hành động, ngôn ngữ

– Khắc họa những mâu thuẫn, xung đột

– Ngôn ngữ trong sáng, giọng kể chậm rãi

– Sử dụng các biện pháp nghệ thuật so sánh, đối lập

– Sử dụng các định ngữ: “Uy-lít-xơ cao quý”, “Pê-nê-lốp thận trọng” là cách dùng từ đặc trưng của thể loại sử thi

III. Kết bài

– Khái quát nội dung và nghệ thuật của đoạn trích

– Mở rộng: Thông qua đoạn trích, khẳng định vẻ đẹp, trí tuệ của con người Hi Lạp cổ đại, làm rõ giá trị hạnh phúc gia đình thời kì ấy.

Phân tích đoạn trích Uy-lít-xơ trở về

I-li-át và Ô-đi-xê là hai sử thi nổi tiếng bậc nhất của đất nước Hy Lạp, được xem là sáng tạo của Hô-me-rơ, tuy nhiên cho đến tận ngày hôm nay người ta vẫn không rõ về lai lịch và gia cảnh của nhân vật này. Có nhiều truyền thuyết xung nhà thơ mù này, trong đó đó phổ biến nhất là thuyết kể rằng ông tên thật là Mê-lê-xi-gien, là con của một gia đình nghèo sinh ra bên cạnh dòng sông Mê-lét vào khoảng thế kỷ thứ IX-VIII, TCN. Ông là người có vốn sống và vôn văn học dân gian cực kỳ phong phú, cùng với năng khiếu sáng tác văn học thơ ca trời phú đã giúp ông tạo nên những tác phẩm xuất sắc được lưu truyền đến muôn đời. Sử thi Ô-đi-xê gồm 12110 câu thơ và được chia làm 24 khúc ca, là sự tiếp nối của sử thi I-li-át, trong đó 12 khúc ca đầu kể về hành trình quay lại quê nhà của Uy-lít-xơ, 12 khúc ca cuối là kể lại việc Uy-lít-xơ đương đầu với 108 tên cầu hôn vợ mình, và hành trình sum họp gia đình sau đó. Và đoạn trích Uy-lít-xơ trở về nằm ở khúc ca thứ 23, 24 của sử thi, là phần đoàn tụ của gia đình sau khi trải qua một thử thách mang tên bài toán về bí mật chiếc giường cưới.

Trong sử thi Ô-đi-xê bên cạnh xây dựng nhân vật Uy-lít-xơ với vẻ đẹp biểu tượng trí tuệ xuất chúng của người Hy Lạp cổ, thì tác giả còn xây dựng hình tượng người phụ nữ rất lý tưởng, khắc họa những phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ này. Có thể xem đây là một điểm đột phá, một cái nhìn mới mẻ, đậm tính nhân văn của tác giả Hô-me-rơ trong nghệ thuật xây dựng nhân vật. Ở nhân vật Pê-nê-lốp tác không chú trọng vào việc miêu tả ngoại hình của nàng, tuy nhiên qua một số chi tiết nhỏ trong sử thi thì ta dễ dàng nhận ra rằng người phụ nữ này cũng là một trang tuyệt sắc giai nhân hiếm có. Cho nên Uy-lít-xơ trong suốt mười năm lênh đênh trên biển cả, đứng trước rất nhiều cám dỗ thế nhưng chàng chỉ hướng về duy nhất người vợ đang đợi chờ mình ở nhà và một lòng muốn quay lại quê hương. Một bằng chứng nữa về nhan sắc của Pê-nê-lốp ấy là cảnh nàng phải đương đầu với 108 tên đến cầu hôn, mà đây lại đều là những tên quý tộc, giàu có tiếng tăm ở trong vùng. Tuy nhiên nhan sắc của nàng không phải là điều tác giả muốn nói đến mà quan trọng hơn Hô-me-rơ muốn hướng tới là vẻ đẹp tâm hồn và vẻ đẹp trí tuệ của người phụ nữ này. Vẻ đẹp tâm hồn của nàng chính là lòng chung thủy với chồng, một số dẫn chứng có thể đến như là việc nàng chờ người chồng chinh chiến ở xa tận suốt 20 năm trời đằng đẵng, mà ở đây không phải là việc chờ chồng trong yên ả, mà trái lại nàng luôn phải đối mặt với những sự hối thúc, ép buộc của tận 108 tên cầu hôn. Vốn là những tên láo xược, không từ thủ đoạn để lấy được nàng, và âm mưu chiếm đoạt cả gia tài của gia đình nàng. Cùng với đó bên ngoài là sự thúc ép của những tên cầu hôn, thì ngay trong chính gia đình nàng lại phải chịu áp lực từ chính cha mẹ đẻ, hối thúc nàng nhanh chóng tái giá. Có thể nói rằng đây chính là những bằng chứng rõ nhất, hùng hồn nhất để minh chứng cho tấm lòng chung thủy, sắt son không đổi trong suốt 20 năm của nàng Pê-nê-lốp. Từ chính tấm lòng chung thủy với chồng mà nàng đã nghĩ ra mưu kế về tấm thảm ngày dệt đêm tháo, để trì hoãn chuyện tái giá của mình và hy vọng về một ngày không xa có thể được đoàn tụ với chồng mình. Lòng chung thủy của nàng còn được lần nữa chứng minh qua việc khi đã xác minh được rằng người hành khất kia chính là chồng mình, chính là Uy-lít-xơ trở về sau hai mươi năm thì lúc này Pê-nê-lốp đã thay đổi thái độ hoàn toàn. Nếu như trước đó là nghi ngờ, là lạnh lùng, là xa cách thì bây giờ nàng đã bày tỏ niềm hạnh phúc, sung sướng của mình một cách rất tự nhiên, rất bồng bột “nàng bèn chạy ngay lại, nước mắt chan hòa ôm lấy cổ chồng, hôn lên trán chồng” và giãi bày hết những nỗi lòng kìm nén bấy lâu, giải thích cho sự lạnh lùng thờ ơ của nàng ban nãy. Hô-me-rơ đã dùng một hình ảnh so sánh rất hay, nói về việc người đi biển bị nạn, rồi cố gắng bơi được vào bờ đã hạnh phúc sung sướng như thế nào thì nàng Pê-nê-lốp giờ đây cũng y như vậy.

Bên cạnh vẻ đẹp tâm hồn – tấm lòng thủy chung của nàng Pê-nê-lốp thì tác giả càng chú trọng nhiều hơn về vẻ đẹp trí tuệ của nhân vật này thể hiện ở sự khôn ngoan và thận trọng trong mọi tình huống. Sự khôn ngoan của nàng thể hiện thứ nhất là ở việc nàng cố nghĩ ra một cách để trì hoãn việc tái giá, đó chính là lời giao hẹn về tấm thảm ngày dệt đêm tháo của nàng rằng sẽ nhận lời cầu hôn nếu tấm thảm hoàn thành. Thế nhưng tấm thảm ấy chẳng bao giờ hoàn thành được bởi vì cứ ngày nàng dệt rồi đêm nàng lại tháo nó ra. Một biểu hiện nữa của sự khôn ngoan ấy là nàng tiếp tục nghĩ ra một bài toán để thử chồng, thử xem liệu có chính xác là Uy-lít-xơ đã trở về hay không, đó là bài toán về bí mật chiếc giường cưới để xác minh sự thật. Pê-nê-lốp còn thể hiện sự thông minh của mình bằng việc đưa ra bài toán một cách tự nhiên mà không một ai có thể nghi ngờ, chỉ có một người nhận ra đề bài có vấn đề là Uy-lít-xơ. Đó là trong khi Uy-lít-xơ đang rất giận dỗi vì bản thân làm rất nhiều việc để chứng minh mình là Uy-lít-xơ, giận dỗi vì mình đã hai mươi năm lênh đênh phiêu bạt như thế mà khi quay trở về lại phải chịu sự nghi ngờ, lạnh lẽo của vợ, và đòi kê giường riêng để ngủ. Thì Pê-nê-lốp đã nhanh trí bảo con trai khiêng chiếc giường cưới của vợ chồng ra cho Uy-lít-xơ ngủ, thế nhưng chiếc giường ấy vốn là một cái gốc cây và do chính tay Uy-lít-xơ làm nên và chỉ chàng biết điều đó, chính vì thế ngay lập tức chàng đã nhận ra điều bất hợp lý và phản ứng lại ngay. Từ đó mà thân phận của chàng được chứng minh, đồng thời Pê-nê-lốp hoàn toàn tin tưởng rằng chồng của mình đã trở về.

Vẻ đẹp trí tuệ thứ hai của Pê-nê-lốp được thể hiện gián tiếp qua lời kể của tác giả bằng tính ngữ “thận trọng” trước mỗi lời dẫn khi Pê-nê-lốp nói chuyện. Và còn được thể hiện trực tiếp qua các dẫn chứng cụ thể, đầu tiên là khi nhũ mẫu báo tin về việc Uy-lít-xơ trở về thì nàng không hề tin với hai lý lẽ, thứ nhất là một mình Uy-lít-xơ không thể giết chết, đối phó với 108 tên cầu hôn, đây là hành động của thần linh đến để trừng trị những kẻ láo xược, thứ hai là Uy-lít-xơ ra đi đã 20 mươi năm không lý nào mà bây giờ mà chàng mới trở về, nếu trở về thì đã trở về từ lâu rồi, còn không trở về tức là chàng đã chết. Khi nhũ mẫu tiếp tục đưa ra bằng chứng về vết sẹo của Uy-lít-xơ vốn là bằng chứng không thể chối cãi được, thế nhưng bản thân Pê-nê-lốp cũng chưa lấy đó làm tin ngay mà vội vui mừng mà nàng vẫn còn vớt vát cho rằng đó là sự sắp đặt của thần linh, chuyển sang thái độ phân vân. Khi giáp mặt Uy-lít-xơ, Pê-nê-lốp đã chăm chú quan sát để xác minh sự thật, rồi nàng bị rơi vào trạng thái phân vân xáo trộn cảm xúc “khi thì đăm đăm âu yếm nhìn chồng, lúc thì lại không thể nhận ra được chồng dưới bộ quần áo rách mướp”. Khi Tê-lê-mác buông lời trách móc gay gắt, thì nàng bình tĩnh an ủi con, không phủ nhận nữa nhưng nàng cần thêm bằng chứng để nhận chồng bằng những dấu hiệu riêng.

Một nhân vật nữa cần tìm hiểu trong văn bản này bên cạnh Pê-nê-lốp ấy chính là Uy-lít-xơ nhân vật chính của toàn bộ sử thi Ô-đi-xê. Ở nhân vật này cũng hiện lên hai vẻ đẹp giống như vợ mình là vẻ đẹp tâm hồn và vẻ đẹp của trí tuệ. Vẻ đẹp tâm hồn của chàng thể hiện ở tấm lòng chung thủy với vợ trong suốt 20 năm trời xa cách, trong mười năm lưu lạc lênh đênh trên biển cả, chàng đã vượt qua tất cả sự cám dỗ của những người phụ nữ xinh đẹp và quyền lực nhất, để hướng về người vợ ở quê nhà. Khi đã trở về nhà, đối mặt với bài toán bí mật chiếc giường cưới, dù đã qua hơn 20 năm nhưng chàng vẫn phản ứng ngay lập tức và có thể nói về nó một cách tỉ mỉ và chi tiết, điều đó chứng tỏ suốt bao lâu nay chàng vẫn luôn nhớ về gia đình và nhớ về tình yêu đẹp đẽ của hai người. Trong giây phút nhận mặt người anh hùng đã trải biết bao nhiêu gió sương lại ôm chặt lấy vợ mà khóc “dầm dề” điều đó đã bộc lộ tình cảm sâu sắc tấm lòng thủy chung gắn bó của Uy-lít-xơ đối với vợ mình. Vẻ đẹp trí tuệ của Uy-lít-xơ được biểu hiện gián tiếp qua lời nhận xét, ca ngợi của các nhân vật khác như nhũ mẫu, con trai Tê-lê-mác và cả Pê-nê-lốp. Sự khôn ngoan vẻ đẹp trí tuệ của Uy-lít-xơ còn được thể hiện trực tiếp thông qua đoạn trích, chàng đã lập mưu để trừng trị 108 tên cầu hôn láo xược. Ngay sau khi chiến thắng, chàng đã lập tức dự phòng, định liệu chuẩn bị những phương án để chống lại sự trả thù của gia đình 108 tên vương tôn quý tộc.

Như vậy đoạn trích Uy-lít-xơ trở về đã ca ngợi vẻ đẹp của hai nhân vật cũng chính là biểu tượng cho vẻ đẹp của người hy lạp cổ đại bao gồm vẻ đẹp tâm hồn – lòng chung thủy và vẻ đẹp trí tuệ – sự khôn ngoan thận trọng. Về nghệ thuật, đó chính là lối kể chuyện giàu kịch tính khiến người đọc bị cuốn vào nội dung câu chuyện, thứ hai chính là nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật một cách tỉ mỉ và chi tiết, giúp khắc họa hình tượng nhân vật rõ nét, và cuối cùng là nghệ thuật trì hoãn sử thi tạo nên sự tò mò háo hức của người đọc từ đó khiến bộ sử thi trở nên hấp dẫn và cuốn hút hơn cả.

Xem thêm: Tóm tắt đoạn trích Uy-lít-xơ trở về

Phân tích bài Uy-lít-xơ trở về

Hô-me-rơ, nhà thơ mù của Hi Lạp sống vào thế kỷ IX và XIII trước Công nguyên. Ông sinh trưởng trong một gia đình nghèo bên kia sông Mê-lét. Hai bộ sử thi đồ sộ I-li-at và Ô-đi-xê là những cống hiến của ông cho văn học.

Tác phẩm ra đời vào thời kì người Hi Lạp mở rộng địa bàn hoạt động ra biển cả. Trong sự nghiệp khám phá và chinh phục thế giới bao la và bí hiểm đó. Con người ngoài lòng dũng cảm đòi hỏi phải có những phẩm chất cần thiết như thông minh, tỉnh táo, mưu chước, khôn ngoan. Hình tượng Uy-lít-xơ chính là lí tưởng hoá sức mạnh của trí tuệ của người Hi Lạp.

Mặt khác Ô-đi-xê ra đời khi người Hi Lạp sắp bước vào ngưỡng cửa của chế độ chiếm hữu nô lệ. Từ đây con người giã từ chế độ công xã thị tộc để thay vào đó tổ chức gia đình. Hôn nhân một vợ chồng xuất hiện. Nó đòi hỏi tình cảm quê hương, gia đình gắn bó, thuỷ chung. Hô-mê-rơ là một thiên tài dự đoán cho thời đại ông. Cả hai ý tưởng trí tuệ và tình yêu chung thuỷ được thể hiện trong đoạn trích Uy-lít- xơ trở về.

Trí tuệ và tình yêu của Uy- lít-xơ và Pê-nê-lốp biểu tượng những phẩm chất cao đẹp của người cổ đại Hy Lạp khát khao vươn tới qua lối mưu tả tâm lý, lối so sánh, giọng điệu kể chuyện.

Ô-đi-xê kể lại cuộc hành trình về quê Uy-lít-xơ sau khi hạ thành Tơ-roa. Tác phẩm gồm 12110 câu thơ chia làm 24 khúc ca. Câu chuyện bắt đầu từ thời điểm Uy-lít-xơ đang bị nữ thần Ca-lip-xô dâng linh đan để chàng trường sinh bất tử cùng chung sống với nàng. Các thần cầu xin Dớt. Thần Dớt lệnh cho Ca-lip-xô phải để chàng đi. Uy-lít-xơ gặp bão, thần biển trả thù Uy-lít-xơ vì chàng đã đâm thủng mắt Xi-clôp- đứa con trai của thần, Uy-lít-xơ may mắn dạt vào xứ sở của An-ki-nô-ôt. Biết chàng là người đã làm nên chiến công thành Tơ-roa. Nhà vua yêu cầu chàng kể lại cuộc hành trình từ ca khúc I tới ca khúc XII. Được nhà vua An-ki-nô-ốp giúp đỡ, Uy-lít-xơ đã trở về quê hương. Lúc đó Pê-nê-lốp – vợ của chàng tại quê nhà phải đối mặt với 108 tên vương tôn công tử đến cầu hôn. Uy-lít-xơ cùng con trai và đám gia nhân trung thành lập mưu trừng trị bọn chúng, gia đình Uy-lít-xơ được sum họp một nhà.

Đoạn trích thuộc khúc ca XVIII trong Ô-đi-xê. Trước đoạn trích này là Uy-lít-xơ giả vờ làm người hành khất vào được ngôi nhà của mình và kể cho Pê-nê-lốp nghe những câu chuyện về vợ chồng nàng mà anh ta biết. Pê-nê-lốp tổ chức thi bắn. Dựa vào đó hai cha con Uy-lít-xơ đã tiêu diệt 108 vương tôn công tử láo xược và những gia nhân không trung thành. Đoạn trích này bắt đầu từ đó.

Qua đoạn trích, tác giả đã khắc hoạ vẻ đẹp tâm hồn và trí tuệ của Pê-nê-lốp và của Uy-lít-xơ.

Tâm trạng của Uy-lít-xơ khi gặp lại vợ và gia đình: chàng vừa mừng rỡ, hồi hộp, vui sướng, nhưng vẫn rất bình tĩnh, sáng suốt. Chàng đóng vai người hành khất, bình tĩnh lập mưu kế cùng cậu con trai là Tê-lê-mác giết chết bọn cầu hốn láo xược và những giai nhân phản bội. Khi gặp lại vợ, chàng vẫn bình tĩnh, cố kiên nhẫn chờ Pê-nê-lốp nhận ra mình. Cái mỉm cười của Uy-lít-xơ “Nghe nàng nói vậy, Uy-lít- xơ cao quý và nhẫn nại mỉm cười”… cho thấy trí tuệ và nhân phẩm cao quý của chàng.

Tâm trạng “rất đỗi phân vân” của nàng thể hiện ở dáng điệu, cử chỉ, sự lúng túng tìm cách ứng xử: “Không biết nên đứng xa hỏi chuyện người chồng yêu quý của mình hay nên lại gần ôm lấy đầu, cầm lấy tay mà hôn”. Nàng dò xét, suy nghĩ, tính toán mông lung nhưng cũng không giấu được sự bàng hoàng xúc động khôn cùng: “Ngồi lặng thinh trên ghế hồi lâu, lòng sửng sốt, khi thì đăm đăm âu yếm nhìn chồng, khi lại không nhận ra chồng dưới bộ áo quần rách mướp”.

Việc chọn cách thử “bí mật của chiếc giường” cho thấy Pê-nê-lốp là con người trí tuệ, thông minh và tỉnh táo biết kìm nén tình cảm của mình. Bên cạnh sự thông minh, tỉnh táo là sự thận trọng của nàng. Điều đó rất phù hợp với hoàn cảnh của nàng lúc này. Pê-nê-lốp là người tỉnh táo mà tế nhị, kiên quyết mà thận trọng, trí tuệ mà rất giàu tình cảm, phẩm chất cao thượng.

Cách kể chuyện của Hô-me-rơ qua đoạn trích tạo hiệu quả bất ngờ và xúc động làm nổi bật phẩm chất của Pê-nê-lốp và Uy-lít-xơ.

Biện pháp nghệ thuật thường được sử dụng trong đoạn trích là tương phản, tạo kịch tính, gây bất ngờ…

Trong đoạn cuối, biện pháp nghệ thuật được sử dụng thành công là so sánh: Hình ảnh “mặt đất” và “người đi biển” nói lên tâm trạng khao khát đến tuyệt vọng, nhưng cũng mừng vui khôn xiết của nàng Pê-nê-lốp khi gặp lại người chồng yêu dấu sau hai mươi năm vì chiến tranh và lưu lạc.

Tâm trạng của Pê-nê-lốp khi gặp lại chồng được so sánh với người đi biển bị đắm tàu, trong cơn tuyệt vọng bỗng nhận ra đất liền.

Đăng bởi: THPT Nguyễn Đình Chiểu

Chuyên mục: Tài Liệu Lớp 10

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button

Bạn đang dùng trình chặn quảng cáo!

Bạn đang dùng trình chặn quảng cáo!