Soạn bài Nghị luận trong văn bản tự sự
Nghị luận trong văn tự sự là bài học sẽ được giới thiệu đến các em học sinh ở chương trình Ngữ Văn lớp 9.
THPT Nguyễn Đình Chiểu mời bạn đọc tham khảo tài liệu Soạn văn 9: Nghị luận trong văn bản tự sự, được chúng tôi đăng tải chi tiết dưới đây.
Bạn đang xem: Soạn bài Nghị luận trong văn bản tự sự
Soạn bài Nghị luận trong văn bản tự sự – Mẫu 1
I. Tìm hiểu yếu tố nghị luận trong văn bản tự sự
1. Đọc các đoạn trích trong SGK
2. Suy nghĩ và thực hiện các yêu cầu
a. Nghị luận là nêu lí lẽ, dẫn chứng để bảo vệ một quan điểm, tư tưởng (luận điểm) nào đó. Căn cứ vào định nghĩa này, hãy tìm và chỉ ra những câu, chữ thể hiện rõ tính chất nghị luận trong hai đoạn trích trên.
* Đoạn a:
– Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi…
– Vợ tôi không ác, nhưng thị khổ quá rồi.
– Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ gì đến ai được nữa.
– Tôi biết vậy nên chỉ buồn chứ không nỡ giận.
* Đoạn b:
– Dễ dàng là thói hồng nhan/Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều
– Tôi chút phận đàn bà/Ghen tuông thì cũng người ta thường tình
– Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai.
b. Từ việc tìm hiểu hai đoạn trích, hãy trao đổi trong nhóm để hiểu nội dung và vai trò của yếu tố nghị luận trong văn bản tự sự nói chung. Yếu tố nghị luận có thể làm cho văn bản tự sự thêm sâu sắc như thế nào?
* Đoạn a:
– Người viết đã đưa ra những luận điểm:
- “Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi…” – Luận điểm có tính chất đặt vấn đề.
- “Vợ tôi không ác, nhưng thị khổ quá rồi” – Luận điểm có tính chất phát triển, mở rộng vấn đề.
- “Tôi biết vậy nên chỉ buồn chứ không nỡ giận” – Luận điểm có tính chất kết thúc lại vấn đề.
– Để làm rõ cho các luận điểm, người ta đã đưa ra các luận cứ: “Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến ai được nữa” – Chứng cứ phù hợp, xác đáng.
– Các câu trong văn bản tự sự thường là các loại câu trần thuật mang tính chất khẳng định ngắn gọn, các cặp từ hô ứng được sử dụng như: nếu… thì.
* Đoạn b:
– Lập luận của Thúy Kiều: Xưa nay là đàn bà không có mấy người cay nghiệt, càng cay nghiệt lắm càng gặp phải nhiều oan trái.
– Lập luận của Hoạn Thư:
- Lí lẽ: Đàn bà ghen tuông là chuyện bình thường. Không người vợ nào chấp nhận chịu cảnh chồng chung.
- Chỉ ra công lao: Khi ở Quan Âm Các còn cứu giúp cho Thúy Kiều.
- Đánh vào lòng khoan dung, nhân hậu của Thúy Kiều.
– Các câu trong văn bản được sử dụng đa phần là câu trần thuật, có tính chất khẳng định, các cặp từ hô ứng như càng… càng.
=> Các yếu tố nghị luận giúp cho bài văn trở nên thuyết phục, mang tính triết lí cao.
Tổng kết:
– Trong văn tự sự, để người đọc (người nghe) phải suy nghĩ về một vấn đề nào nó, người viết (người kể) và nhân vật có khi nghị luận bằng cách nêu lên các ý kiến, nhận xét cùng những lí lẽ và dẫn chứng.
– Nội dung đó thường được diễn tả bằng các hình thức lập luận, làm cho câu chuyện thêm phần triết lý, thuyết phục.
II. Luyện tập
Câu 1. Lời văn trong đoạn trích (a) mục I.1 là lời của ai? Người ấy đang thuyết phục ai? Thuyết phục điều gì?
Gợi ý:
– Lời văn trong đoạn trích (a) mục I.1 là lời của ông giáo trong truyện ngắn Lão Hạc (Nam Cao).
– Ông giáo đang thuyết phục mọi người (hay chính người đọc, người nghe).
– Ông giáo muốn khẳng định rằng vợ mình không ác, trước thái độ của người vợ đối với hoàn cảnh của lão Hạc. Bởi lý do: những người khổ quá thì không nghĩ đến nỗi khổ của người khác. Chính vì vậy, ông giáo chỉ buồn chứ không nỡ giận vợ.
Câu 2. Ở đoạn trích (b), mục I.1 Hoạn Thư đã lập luận như thế nào mà Kiều phải khen rằng: Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời? Hãy tóm tắt nội dung lý lẽ trong lời lập luận của Hoạn Thư để làm sáng tỏ lời khen của nàng Kiều.
Gợi ý:
Cách lập luận vô cùng khôn ngoan, khéo léo khiến Kiều phải khen và rời vào thế khó xử:
– Trước lời lẽ của Kiều, Hoạn Thư cũng “hồn lạc phách xiêu” và “khấn đầu dưới trướng liệu điều kêu ca”: đầy sự sợ hãi.
– Nhưng với bản chất khôn ngoan của mình, Hoạn Thư đã nhanh chóng lấy lại tinh thần để biện minh cho mình:
Rằng: “Tôi chút phận đàn bà,
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.
=> Lí lẽ tưởng chừng như vô cùng hợp lý khi đưa bản thân về phía Kiều – cùng chung hoàn cảnh là “phận đàn bà”, việc “ghen tuông” cũng là thường tình. Hoạn Thư đưa ra lập luận để Kiều thấy mình chỉ là nạn nhân của chế độ đa thê.
– Hoạn Thư còn kể lại công lao của mình:
Nghĩ cho khi gác viết kinh,
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.
Hai câu thơ nhắc lại việc Hoạn Thư cho Thúy Kiều ra gác ở Kinh Quan Âm, cũng như không bắt nàng khi bỏ trốn. Dường như Hoạn Thư từ tội nhân đã trở thành ân nhân của Kiều – sự khôn ngoan.
– Cuối cùng, Hoạn nhận hết tội lỗi về mình:
Trót lòng gây việc chông gai,
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng.
Hoạn Thư đã biết đánh vào tấm lòng nhân hậu, thương người của Kiều. ĐIều đó cho thấy sự “sâu sắc từng trải” cũng như “khôn ngoan đến mức tinh quái”.
– Lời lẽ ấy khiến Kiều buộc phải khen:
Khen cho: Thật đã nên rằng,
Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời.
=> Sự khó xử của Kiều, không biết nên tha thứ hay xử tội.
Soạn bài Nghị luận trong văn bản tự sự – Mẫu 2
Câu 1. Lời văn trong đoạn trích (a) mục I.1 là lời của ai? Người ấy đang thuyết phục ai? Thuyết phục điều gì?
– Lời văn trong đoạn trích (a) mục I.1 là lời của ông giáo trong truyện ngắn Lão Hạc (Nam Cao). Ông giáo đang thuyết phục mọi người (hay chính người đọc, người nghe).
– Ông giáo muốn khẳng định rằng vợ mình không ác, trước thái độ của người vợ đối với hoàn cảnh của lão Hạc. Bởi lý do: những người khổ quá thì không nghĩ đến nỗi khổ của người khác. Chính vì vậy, ông giáo chỉ buồn chứ không nỡ giận vợ.
Câu 2. Ở đoạn trích (b), mục I.1 Hoạn Thư đã lập luận như thế nào mà Kiều phải khen rằng: “Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời”? Hãy tóm tắt nội dung lý lẽ trong lời lập luận của Hoạn Thư để làm sáng tỏ lời khen của nàng Kiều.
Cách lập luận vô cùng khôn ngoan, khéo léo khiến Kiều phải khen và rời vào thế khó xử. Trước lời lẽ của Kiều, Hoạn Thư cũng “hồn lạc phách xiêu” và “khấn đầu dưới trướng liệu điều kêu ca”. Nhưng với bản chất khôn ngoan của mình, Hoạn Thư đã nhanh chóng lấy lại tinh thần để biện minh cho mình:
“Rằng: “Tôi chút phận đàn bà,
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.”
Lí lẽ tưởng chừng như vô cùng hợp lý khi đưa bản thân về phía Kiều – cùng chung hoàn cảnh là “phận đàn bà”, việc “ghen tuông” cũng là thường tình. Hoạn Thư đưa ra lập luận để Kiều thấy mình chỉ là nạn nhân của chế độ đa thê. Không chỉ vậy, Hoạn Thư còn kể lại công lao của mình:
“Nghĩ cho khi gác viết kinh,
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.”
Hai câu thơ nhắc lại việc Hoạn Thư cho Thúy Kiều ra gác ở Kinh Quan Âm, cũng như không bắt nàng khi bỏ trốn. Dường như Hoạn Thư từ tội nhân đã trở thành ân nhân của Kiều – sự khôn ngoan. Cuối cùng, Hoạn nhận hết tội lỗi về mình:
“Trót lòng gây việc chông gai,
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng.”
Hoạn Thư đã biết đánh vào tấm lòng nhân hậu, thương người của Kiều. ĐIều đó cho thấy sự “sâu sắc từng trải” cũng như “khôn ngoan đến mức tinh quái”. Lời lẽ ấy khiến Kiều buộc phải khen:
“Khen cho: Thật đã nên rằng,
Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời.”
Đăng bởi: THPT Nguyễn Đình Chiểu
Chuyên mục: Tài Liệu Lớp 9