Lớp 7

Soạn bài Một thứ quà của lúa non Cốm

Tùy bút Một thứ quà của lúa non: Cốm sẽ được giới thiệu đến học sinh trong chương trình Ngữ văn lớp 7.

Một thứ quà của lúa non: Cốm
Một thứ quà của lúa non: Cốm

Dưới đây là tài liệu Soạn văn 7: Một thứ quà của lúa non Cốm, mời thầy cô và các em học sinh tham khảo.

Bạn đang xem: Soạn bài Một thứ quà của lúa non Cốm

Soạn bài Một thứ quà của lúa non: Cốm – Mẫu 1

Soạn văn Một thứ quà của lúa non: Cốm chi tiết

I. Tác giả

– Thạch Lam (1910 – 1942) tên khai sinh là Nguyễn Tường Vinh, sau đổi là Nguyễn Tường Lân.

– Ông sinh ra trong một gia đình công chức gốc quan ở Hà Nội. Khi còn nhỏ, ông chủ yếu sống ở quê ngoại là thành phố Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương.

– Là một nhà văn nổi tiếng, một trong những thành viên của nhóm Tự lực văn đoàn trong giai đoạn trước Cách mạng tháng 8 năm 1945.

– Thạch Lam là nhà văn có sở trường về truyện ngắn với ngòi bút tinh tế, nhạy cảm, đặc biệt khi khai thác thế giới nội tâm của con người.

– Quan niệm văn chương: Trong lời giới thiệu cho tập truyện ngắn “Gió đầu mùa” xuất bản trước Cách mạng, Thạch Lam viết: “Đối với tôi văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn”.

– Một số tác phẩm tiêu biểu:

  • Các tập truyện ngắn: Gió lạnh đầu mùa (NXB Đời nay, 1937), Nắng trong vườn (NXB Đời nay, 1938), Sợi tóc (Nhà xuất bản Đời nay, 1942).
  • Tập truyện dài: Ngày mới (Nhà xuất bản Đời nay, 1939)
  • Tùy bút: Hà Nội băm sáu phố phường (Nhà xuất bản Đời nay, 1943)
  • Truyện viết cho thiếu nhi: Quyển sách và Hạt ngọc (Nhà xuất bản Đời Nay, 1940).
  • Bình luận văn học: Theo giòng (Nhà xuất bản Đời nay, 1941)

II. Tác phẩm

1. Xuất xứ

“Một thứ quà của lúa non: Cốm” được rút từ tập “Hà Nội băm sáu phố phường” (1943). Đây là tập tùy bút viết về cảnh sắc và phong vị của Hà Nội đặc biệt là những món ăn, thứ quà thường ngày bình dị, không mấy cao sang nhưng lại đậm đà hương vị truyền thống, thể hiện sự khéo léo tinh tế của bản sắc người Hà Nội.

2. Thể loại

– Tùy bút là một thể văn, tuy khá giống với bút kí, kí sự ở yếu tố miêu tả, ghi chép những hình ảnh sự việc quan sát, chứng kiến được. Nhưng tùy bút lại thiên nhiều về biểu cảm, chú trọng đến thể hiện cảm xúc, suy nghĩ của người viết.

– Ngôn ngữ giàu hình ảnh, chất trữ tình.

3. Bố cục

Gồm 3 phần:

  • Phần 1: Từ đầu đến “vút lên như những chiếc thuyền rồng”. Giới thiệu khái quát về cốm và sự hình thành của cốm.
  • Phần 2: Tiếp theo đến “những kẻ mới giàu vô học có biết đâu mà thưởng thức được những vẻ cao quý kín đáo và nhũn nhặn”. Ca ngợi những giá trị của cốm.
  • Phần 3: Còn lại. Bàn về cách thưởng thức cốm.

III. Đọc – hiểu văn bản

1. Giới thiệu khái quát về cốm và sự hình thành của cốm

– Cách dẫn dắt vào bài: “Cơn gió mùa hạ lướt qua vừng sen trên hồ, nhuần thấm cái hương thơm của lá, như báo trước mùa về của một thứ quà thanh nhã và tinh khiết”, cảm nhận về cốm qua khứu giác.

– Nguồn gốc của cốm:

  • Xuất phát từ những cánh đồng xanh, với những hạt thóc nếp đầu tiên trĩu nặng với mùi thơm mát của bông lúa non.
  • Trong cái vỏ xanh kia là giọt sữa trắng thơm, phảng phất hương vị hoa cỏ.
  • Dưới ánh nắng, giọt sữa dần đông lại, bông sữa ngày càng cong xuống, nặng vì cái chất quý trong sạch.

=> Được tạo ra từ những gì tinh túy nhất của thiên nhiên, trời đất.

– Cách chế biến cốm:

  • Đợi đến lúc vừa nhất thì gặt mang về.
  • Cách chế biến được truyền từ đời này sang đời khác – là một sự bí mật
  • Không đâu làm cốm dẻo, thơm và ngon như cốm làng Vòng.

=> Cốm là sản phẩm của bàn tay khéo léo, tinh tế.

2. Ca ngợi những giá trị của cốm

– Cốm là một món ăn đặc sản của dân tộc: “Là thức quà riêng biệt của đất nước, là thức dâng của những cánh đồng lúa bát ngát xanh, mang trong hương vị tất cả cái mộc mạc, giản dị và thanh khiết của đồng quê nội cỏ An Nam.”

– Cốm còn dùng để biếu, tặng trong những ngày Tết, dùng trong các lễ nghi của dân tộc: Hồng cốm với màu đỏ thắm của hồng như ngọc lựu giàu và màu xanh tươi của cốm như ngọc thạch quý.

=> Cốm là sản phẩm chứa đựng giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam.

3. Bàn về cách thưởng thức cốm

– Không phải thức quà của những người ăn vội mà phải ăn chút ít, thong thả để cảm nhận hương vị kết tinh của đất trời.

– Nhẹ nhàng, nâng đỡ từng hạt cốm.

– Phải biết kính trọng cái lộc của Trời, cái khéo léo của người và sự cố sức tiềm tàng, nhẫn nại của thần Lúa.

=> Thưởng thức cốm phải trang nhã, đẹp đẽ thì cái vui cũng sẽ tươi sáng hơn nhiều.

Tổng kết: 

– Nội dung: Cốm là thức quà riêng biệt của đất nước, là thức dâng của những cánh đồng bát ngát, mang trong hương vị tất cả cái mộc mạc, giản dị và thanh khiết của đồng quê nội cỏ.

– Nghệ thuật: ngòi bút miêu tả tinh tế, nhạy cảm và tấm lòng trân trọng…

Soạn văn Một thứ quà của lúa non: Cốm ngắn gọn

I. Trả lời câu hỏi

Câu 1. Bài tuỳ bút nói về cái gì? Đế nói về đối tượng ấy, tác giả đã sử dụng những phương thức biểu đạt nào (miêu tả, thuyết minh, bình luận)? Phương thức biểu đạt nào là chủ yếu? Bài văn có mấy đoạn? Nội dung chính của mỗi đoạn là gì?

– Bài tùy bút nói về: một thức quà truyền thống của dân tộc là cốm.

– Để nói về đối tượng ấy, tác giả đã sử dụng phương thức biểu đạt: miêu tả

– Bài văn có ba đoạn, nội dung của mỗi đoạn là:

  • Đoạn 1: Từ đầu đến “vút lên như những chiếc thuyền rồng”. Giới thiệu khái quát về cốm và sự hình thành của cốm.
  • Đoạn 2: Tiếp theo đến “những kẻ mới giàu vô học có biết đâu mà thưởng thức được những vẻ cao quý kín đáo và nhũn nhặn”. Ca ngợi những giá trị của cốm.
  • Đoạn 3: Còn lại. Bàn về cách thưởng thức cốm.

Câu 2. Đọc đoạn văn từ đầu đến “trong sạch của trời đất” và cho biết:

– Tác giả đã mở đầu bài viết về cốm bằng những hình ảnh, chi tiết nào?

– Những cảm giác, ấn tượng nào của tác giả đã tạo nên tính biểu cảm của đoạn văn.

– Tác giả đã mở đầu bài viết về cốm bằng những hình ảnh chi tiết:

  • Hương thơm của lá sen trong cơn gió mùa hạ.
  • Mùi thơm mát của bông lúa non trên cánh đồng xanh
  • Giọt sữa trắng thơm, phảng phất hương vị ngàn hoa cỏ.
  • Những cảm giác, ấn tượng của tác giả đã nêu nên tính biểu cảm của đoạn văn:
  • Hình ảnh tinh tế đầy sức gợi cảm: hồ sen, đồng, lúa, bông lúa, giọt sữa lúa và ngào ngạt hương thơm: hương sen, hương lúa, hương sữa.
  • Liên tưởng với một tấm lòng trân trọng: “Trong vỏ xanh kia, có một giọt sữa trắng thơm, phảng phất vị ngàn hoa cỏ. Dưới ánh nắng, giọt sữa dần đông lại, bông lúa ngày càng cong xuống, nặng vì cái chất quý trong sạch của Trời”.

Câu 3. Tác giả nhận xét như thế nào về tục lệ dùng hồng, cốm làm đồ sêu tết của nhân dân ta? Sự hoà hợp, tương xứng của hai thứ ấy đã được phân tích trên những phương diện nào?

– Lời nhận xét: Không có gì hợp hơn với sự vương vít của tơ hồng, thức quà trong sạch, trung thành như các việc lễ nghi.

– Sự hòa hợp, tương xứng của hai thứ ấy đã được phân tích qua sự hài hòa về màu sắc: “màu xanh tươi của cốm như ngọc thạch quý, màu đỏ thắm của hồng như ngọc lựu già”; về mùi vị: “một thứ thanh đạm, một thứ ngọt sắc, hai vị nâng đỡ nhau để hạnh phúc được lâu bền”.

Câu 4. “Cốm là thức quà riêng biệt của đất nước, là thức dâng của cánh đồng lúa bát ngát xanh, mang trong hương vị tất cả cái mộc mạc, giản dị và thanh khiết của đồng quê nội cỏ An Nam”. Em cảm nhận như thế nào về nhận xét ấy của tác giả?

– Nhà văn đã có những nhận xét tinh tế về:

  • Giá trị: Cốm là thức quà riêng biệt của đất nước.
  • Ý nghĩa: Cốm là thức dâng của những cánh đồng lúa bát ngát xanh.
  • Hương vị: Cốm mang trong mình hương vị tất cả cái mộc mạc giản dị và thanh khiết của đồng quê nội cỏ An Nam.

– Cảm nhận về lời nhận xét: ngắn gọn, đầy đủ và sâu sắc.

Câu 5. Đoạn văn sau của bài văn (từ “Cốm không phải thức quà của người vội” đến hết) bàn về sự thưởng thức cốm. Sự tinh tế và thái độ trân trọng của tác giả đối với việc thưởng thức một món quà bình dị đã được thể hiện như thế nào trong bài?

– Không phải thức quà của những người ăn vội mà phải ăn chút ít, thong thả để cảm nhận hương vị kết tinh của đất trời.

– Nhẹ nhàng, nâng đỡ từng hạt cốm.

– Phải biết kính trọng cái lộc của Trời, cái khéo léo của người và sự cố sức tiềm tàng, nhẫn nại của thần Lúa.

=> Thưởng thức cốm phải trang nhã, đẹp đẽ thì cái vui cũng sẽ tươi sáng hơn nhiều.

Câu 6. Bài văn thể hiện nét đặc sắc của ngòi bút Thạch Lam là thiên về cảm giác tinh tế, nhẹ nhàng mà sâu sắc. Em hãy tìm và phân tích một số ví dụ cụ thể trong bài văn để chứng minh nhận xét đó.

* Ví dụ: đoạn mở đầu của bài viết

* Phân tích:

– Cách dẫn dắt vào bài: “Cơn gió mùa hạ lướt qua vừng sen trên hồ, nhuần thấm cái hương thơm của lá, như báo trước mùa về của một thứ quà thanh nhã và tinh khiết”, cảm nhận về cốm qua khứu giác.

– Nguồn gốc của cốm:

  • Xuất phát từ những cánh đồng xanh, với những hạt thóc nếp đầu tiên trĩu nặng với mùi thơm mát của bông lúa non.
  • Trong cái vỏ xanh kia là giọt sữa trắng thơm, phảng phất hương vị hoa cỏ.
  • Dưới ánh nắng, giọt sữa dần đông lại, bông sữa ngày càng cong xuống, nặng vì cái chất quý trong sạch.

=> Được tạo ra từ những gì tinh túy nhất của thiên nhiên, trời đất.

– Cách chế biến cốm:

  • Đợi đến lúc vừa nhất thì gặt mang về.
  • Cách chế biến được truyền từ đời này sang đời khác – là một sự bí mật
  • Không đâu làm cốm dẻo, thơm và ngon như cốm làng Vòng.

=> Cốm là sản phẩm của bàn tay khéo léo, tinh tế.

II. Luyện tập

Tìm và chép lại số một câu thơ, ca dao có nói đến cốm

Gợi ý:

* Bài thơ:

Sáng mát trong như sáng tháng năm
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những mùa thu đã xa

(Đất nước, Nguyễn Đình Thi)

Mùa thu hương cốm gọi về
Xốn xang đến lạ hương quê đầu mùa
Nắng vàng nhạt, gió nhẹ đưa
Heo may xào xạc ngàn xưa Hà Thành

(Mùa cốm gọi thu về, Vũ Dung)

Cuối thu rồi nghe hương cốm thoảng bay
Vương trong nắng chiều heo may trở gió

(Hương cốm mùa thu, Nguyễn Đình Huân)

* Ca dao:

An Phú nấu kẹo mạch nha,
Làng Vòng làm cốm để mà tiến vua.
Họ Lại làm giấy sắc vua,
Làng Láng mở hội kéo cờ hùng nghê.

*

Cốm Vòng, gạo tám Mễ Trì
Tương Bần, húng Láng còn gì ngon hơn

*

Thái Đô làm kẹo mạch nha
Kẻ Vòng làm cốm để mà tiến vua

*

Gắng công kén hộ cốm Vòng
Kén hồng Bạch Hạc cho lòng ai vui
Trách ai lòng dạ đổi thay
Hồng nay để thối, cốm này để thiu.

Soạn bài Một thứ quà của lúa non: Cốm – Mẫu 2

I. Trả lời câu hỏi

Câu 1. Bài tuỳ bút nói về cái gì? Đế nói về đối tượng ấy, tác giả đã sử dụng những phương thức biểu đạt nào (miêu tả, thuyết minh, bình luận)? Phương thức biểu đạt nào là chủ yếu? Bài văn có mấy đoạn? Nội dung chính của mỗi đoạn là gì?

– Bài tùy bút nói về cốm – một thứ của lúa non.

– Tác giả đã sử dụng phương thức biểu đạt miêu tả.

– Bố cục của bài viết:

  • Đoạn 1: Từ đầu đến “vút lên như những chiếc thuyền rồng”. Giới thiệu khái quát về cốm và sự hình thành của cốm.
  • Đoạn 2: Tiếp theo đến “những kẻ mới giàu vô học có biết đâu mà thưởng thức được những vẻ cao quý kín đáo và nhũn nhặn”. Ca ngợi những giá trị của cốm.
  • Đoạn 3: Còn lại. Bàn về cách thưởng thức cốm.

Câu 2. Đọc đoạn văn từ đầu đến “trong sạch của trời đất” và cho biết:

– Tác giả đã mở đầu bài viết về cốm bằng những hình ảnh, chi tiết nào?

– Những cảm giác, ấn tượng nào của tác giả đã tạo nên tính biểu cảm của đoạn văn.

– Những hình ảnh, chi tiết:

  • Hương thơm của lá sen trong cơn gió mùa hạ.
  • Mùi thơm mát của bông lúa non trên cánh đồng xanh
  • Giọt sữa trắng thơm, phảng phất hương vị ngàn hoa cỏ.

– Tính biểu cảm của đoạn văn:

  • Hình ảnh tinh tế đầy sức gợi cảm: hồ sen, đồng, lúa, bông lúa, giọt sữa lúa và ngào ngạt hương thơm: hương sen, hương lúa, hương sữa.
  • Liên tưởng với một tấm lòng trân trọng: “Trong vỏ xanh kia, có một giọt sữa trắng thơm, phảng phất vị ngàn hoa cỏ. Dưới ánh nắng, giọt sữa dần đông lại, bông lúa ngày càng cong xuống, nặng vì cái chất quý trong sạch của Trời”.

Câu 3. Tác giả nhận xét như thế nào về tục lệ dùng hồng, cốm làm đồ sêu tết của nhân dân ta? Sự hoà hợp, tương xứng của hai thứ ấy đã được phân tích trên những phương diện nào?

– Tác giả nhận xét: Không có gì hợp hơn với sự vương vít của tơ hồng, thức quà trong sạch, trung thành như các việc lễ nghi.

– Sự hòa hợp, tương xứng của hai thứ ấy đã được phân tích qua sự hài hòa về màu sắc: “màu xanh tươi của cốm như ngọc thạch quý, màu đỏ thắm của hồng như ngọc lựu già”; về mùi vị: “một thứ thanh đạm, một thứ ngọt sắc, hai vị nâng đỡ nhau để hạnh phúc được lâu bền”.

Câu 4. “Cốm là thức quà riêng biệt của đất nước, là thức dâng của cánh đồng lúa bát ngát xanh, mang trong hương vị tất cả cái mộc mạc, giản dị và thanh khiết của đồng quê nội cỏ An Nam”. Em cảm nhận như thế nào về nhận xét ấy của tác giả?

– Nhà văn đã có những nhận xét tinh tế về:

  • Giá trị: Cốm là thức quà riêng biệt của đất nước.
  • Ý nghĩa: Cốm là thức dâng của những cánh đồng lúa bát ngát xanh.
  • Hương vị: Cốm mang trong mình hương vị tất cả cái mộc mạc giản dị và thanh khiết của đồng quê nội cỏ An Nam.

– Cảm nhận về lời nhận xét: ngắn gọn, đầy đủ và sâu sắc.

Câu 5. Đoạn văn sau của bài văn (từ “Cốm không phải thức quà của người vội” đến hết) bàn về sự thưởng thức cốm. Sự tinh tế và thái độ trân trọng của tác giả đối với việc thưởng thức một món quà bình dị đã được thể hiện như thế nào trong bài?

Tác giả khẳng định: Cốm không phải thức quà của những người ăn vội mà phải ăn chút ít, thong thả để cảm nhận hương vị kết tinh của đất trời. Cần “nhẹ nhàng, nâng đỡ từng hạt cốm”. Người thưởng thức cốm “phải biết kính trọng cái lộc của Trời, cái khéo léo của người và sự cố sức tiềm tàng, nhẫn nại của thần Lúa”.

=> Thưởng thức cốm phải trang nhã, đẹp đẽ thì cái vui cũng sẽ tươi sáng hơn nhiều.

Câu 6. Bài văn thể hiện nét đặc sắc của ngòi bút Thạch Lam là thiên về cảm giác tinh tế, nhẹ nhàng mà sâu sắc. Em hãy tìm và phân tích một số ví dụ cụ thể trong bài văn để chứng minh nhận xét đó.

– Đoạn từ “Cốm không phải là thức quà… hơn nhiều lắm”: Bàn về cách thưởng thức cốm.

– Phân tích:

  • Không phải thức quà của những người ăn vội mà phải ăn chút ít, thong thả để cảm nhận hương vị kết tinh của đất trời.
  • Nhẹ nhàng, nâng đỡ từng hạt cốm.
  • Phải biết kính trọng cái lộc của Trời, cái khéo léo của người và sự cố sức tiềm tàng, nhẫn nại của thần Lúa.

=> Thưởng thức cốm phải trang nhã, đẹp đẽ thì cái vui cũng sẽ tươi sáng hơn nhiều.

II. Luyện tập

Tìm và chép lại số một câu thơ, ca dao có nói đến cốm.

Gợi ý:

Hỡi cô thắt lưng bao xanh,
Có về làm cốm với anh thì về.

*

Nghề chi ba vốn bốn lời
Theo nghề làm cốm cho đời ngọt thơm.

*
Nhứt cốm làng Vòng
Kẹo gương xứ Huế
Bánh bèo chợ Thủ
Bò hóc Sóc Trăng

Đăng bởi: THPT Nguyễn Đình Chiểu

Chuyên mục: Tài Liệu Lớp 7

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button

Bạn đang dùng trình chặn quảng cáo!

Bạn đang dùng trình chặn quảng cáo!