Cảm nhận về đoạn trích Trao duyên của Nguyễn Du (6 Mẫu)
Cảm nhận Trao duyên của Nguyễn Du mang đến cho các bạn dàn ý và 6 bài văn mẫu hay ấn tượng nhất. Qua đó giúp học sinh lớp 10 có nhiều ý mới, ý hay, ý đẹp khi làm văn. Đồng thời giúp cho các em có thêm vốn từ phong phú khi diễn đạt.
Cảm nhận về Trao duyên không chỉ nói lên được tâm trạng của Thúy Kiều mà còn thể hiện được bộ mặt xã hội phong kiến đầy những bất công. Tình duyên của người con gái vì thế mà lỡ làng. Dù nàng có đi đâu thì nàng cũng vẫn nhớ về mối tình cùng chàng Kim Trọng. Vậy dưới đây là 6 bài cảm nhận Trao duyên hay nhất, mời các bạn đón đọc.
Bạn đang xem: Cảm nhận về đoạn trích Trao duyên của Nguyễn Du (6 Mẫu)
Dàn ý cảm nhận về đoạn trích Trao duyên
1. Mở bài
– Giới thiệu tác giả Nguyễn Du và Truyện Kiều
– Giới thiệu đoạn trích Trao duyên
2. Thân bài
a. Lời nhờ cậy trao duyên của Thúy Kiều (12 câu thơ đầu)
* Bốn câu đầu: Lời nhờ cậy của Thúy Kiều
– Những từ ngữ “cậy”, “chịu” trong lời nói và hành động “lạy”, “thưa” khiến cho lời nhờ cậy trở nên vô cùng tha thiết.
– “Cậy” vừa mang theo sự khẩn cầu thiết tha vừa vô hình tạo ra sức nặng.
– Kiều dùng lời nói, hành động của người chịu ơn để nói với Thúy Vân.
=> Cách ứng xử của Kiều vẫn thể hiện sự sắc sảo, thông minh khôn khéo và tế nhị.
* Tám câu tiếp: Sự thuyết phục của Thúy Kiều
– 4 câu thơ tiếp: Thúy Kiều Kể về mối tình với chàng Kim
+ Quạt ước” và “chén thề” là những hình ảnh ước lệ tượng trưng gợi nhắc những kỉ niệm tình yêu đẹp đẽ với chàng Kim.
– 4 câu thơ sau: Lí do Kiều quyết định trao duyên
+ Biến cố gia đình ập tới, Kiều buộc phải từ bỏ tình yêu để làm tròn chữ hiếu
+ Thúy Vân vẫn còn trẻ, còn cả tương lai phía trước
+ Kiều mong Thúy Vân thấu hiểu và đồng ý lời thỉnh cầu của mình. Thậm chí, Thúy Kiều nhắc đến cả tình thân ruột thịt và cái chết.
=> Thúy Kiều là người sắc sảo tinh tế, hiếu thảo, trọng tình nghĩa.
b. Thúy Kiều trao kỉ vật và dặn dò Thúy Vân (14 câu thơ tiếp theo)
* Sáu câu đầu: Thúy Kiều trao kỉ vật cho Thúy Vân
– Tất cả những kỉ vật như “chiếc vành”, “bức tờ mây”, “phím đàn”, “mảnh hương nguyền” đều là minh chứng cho một đoạn tình cảm sâu nặng.
– Hai từ “của chung” thể hiện sự lúng túng, ngập ngừng, cho thấy tâm trạng của Kiều khi trao lại kỉ vật cho em.
– Sự mâu thuẫn, xung đột: Lí trí thì mách bảo dứt khoát trao đi nhưng tình cảm thì lại không thể.
* Tám câu thơ tiếp: Lời dặn dò của Kiều
– Kiều dường như có dự cảm về cuộc đời mình và cái chết: hiu hiu gió, hồn, nát thân bồ liễu, dạ đài, người thác oan
=> Thể hiện sự đau đớn, tuyệt vọng của Kiều và tấm lòng thủy chung của nàng. Ngay cả khi chết đi vẫn hướng về Kim Trọng
c. Thực tại xót xa và lời nhắn gửi tới chàng Kim (tám câu thơ cuối)
– Dù do tình cảnh ép buộc, nàng vẫn cảm thấy mình là người có lỗi, mình là người đã cô phụ chàng Kim. – – Tiếng gọi Kim Trọng cất lên tha thiết và nghẹn ngào. Cả đoạn thơ như những tiếng than đứt ruột.
=> Kiều quên đi nỗi đau của mình mà nghĩ nhiều đến người khác
d. Đánh giá nghệ thuật
– Cách sử dụng thể thơ lục bát nhuần nhuyễn, sáng tạo
– Các thành ngữ dân gian
– Khẳng định tài năng của Nguyễn Du
3. Kết bài
Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích
Xem thêm: Dàn ý bài Trao duyên của Nguyễn Du
Sơ đồ tư duy cảm nhận đoạn trích Trao duyên
Cảm nhận Trao duyên – Mẫu 1
Truyện Kiều là một tác phẩm bất hủ của Nguyễn Du nói riêng và nền văn học nước nhà nói chung. Đoạn “Trao duyên” trích trong tác phẩm là đoạn đặc sắc khắc họa thành công dòng tâm trạng của Thuý Kiều khi ngậm ngùi trao duyên cho em gái Thuý Vân.
Theo mạch truyện, nguyện ước kết duyên trăm năm của Thúy Kiều và Kim Trọng chưa được bao lâu thì tai biến xảy đến với gia đình Kiều. Không đành lòng trước sự khổ sở mà cha và em phải gánh chịu, Kiều quyết định bán mình để cứu gia đình. Mọi việc dường như đã xong xuôi, Kiều thức trắng đêm nghĩ đến chàng Kim và tình yêu mặn nồng cùng chàng, vừa day dứt vừa tiếc nuối, Kiều đành cậy nhờ em gái kết duyên với Kim. Đoạn trích từ câu 723 đến câu 756 của tác phẩm:
Thuý Kiều mở lời với em:
“Cậy em em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”
Cả cử chỉ và lời nói của Kiều đều chung một niềm trông mong, nhờ cậy. Hành động “lạy” em của Kiều đã đặt Thúy Vân vào tình huống khó có thể chối từ đồng thời cũng là dấu hiệu cho thấy việc mà Kiều sắp nói với Vân đây là vô cùng hệ trọng:
“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”
Thành ngữ “đứt gánh tương tư” được tác giả vận dụng thể hiện có ý chỉ tình yêu dang dở của Kiều -Kim. Tình cảm của hai người vừa mới chớm nở, chưa kịp tới ngày viên mãn thì đành ‘đứt gánh”, sóng gió ập tới. Chấp nhận dở dang, Kiều ngậm ngùi trong khổ đau trao lại cho em mối “tơ thừa”. Kiều hiểu được sự thiệt thòi của Vân khi nhận chắp mối duyên với Kim Trọng, bởi dù với Kiều đó là tình yêu đẹp thì với Vân đó chỉ là mối “tơ thừa” mà thôi. Hai từ mặc em được tác giả đặt cuối câu cho thấy Kiều đang đặt hết kỳ vọng vào Vân, mong Vân thay mình làm vẹn tròn nghĩa nặng với chàng Kim.
Lời đã nói ra nhưng nào dễ trút đi những nỗi niềm trong tâm khảm. Dằn lòng mình, Kiều tâm sự với em những kỉ niệm đẹp của mối tình với Kim:
“Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề.”
Điệp từ “khi” được sử dụng như càng khẳng định tình cảm sắt son của Kiều và Kim Trọng. Họ đã gặp gỡ, hẹn hò, cùng nhau ước nguyện, uống chén rượu giao bôi. Đang sống trong những kỉ niệm đẹp, Kiều lại trở về với hiện thực phũ phàng, cay đắng:
“Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.”
Cơn sóng gió ập tới bất ngờ khiến Kiều và gia đình lâm vào nguy biến. Giữa chữ hiếu với gia đình và chữ tình với Kim Trọng, nàng đã chọn chữ hiếu- bán mình để cứu cha và em. Nhưng vẹn đạo làm con, nàng đành buông tay với mối tình dang dở, trở thành kẻ phụ tình. Nàng nghĩ về tình yêu với chàng Kim, không muốn Kim phải chịu sự khổ đau như mình đang gặm nhấm, đành nhờ cậy Vân. Để thuyết phục em thêm, Kiều thủ thỉ:
“Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”
Bốn câu thơ thốt lên bằng tất cả niềm hy vọng, sự mong cầu, bốn câu thơ như là một lời cầu xin tha thiết tự tận đáy lòng của Kiều. Sự thông minh của Kiều là khéo léo lấy niềm vui của mình được “thơm lây” nơi chín suối nhằm khiến Thúy Vân có không muốn cũng không thể chối từ. Hơn nữa, với Vân, những ngày tháng thanh xuân còn dài, Vân còn tuổi trẻ, còn thời gian còn với Kiều thì bán thân coi như là chấm dứt tuổi trẻ, chôn vùi thanh xuân của mình. Những lý do của Kiều đưa ra vừa hợp lẽ, hợp tình khiến Vân nào thể không nhận lời nhờ cậy từ người chị đáng thương.
Khi trao “chút của tin” – chiếc vành với bức tờ mây, Thúy Kiều nhớ đến đêm thề nguyền trong quá khứ, vừa thương tiếc vừa xót xa khôn nguôi, Kiều ngậm ngùi với nỗi đau đớn tột cùng:
“Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.”
Trao kỷ vật cho em mà lòng đau như cắt, mâu thuẫn trong nội tâm nàng lên đến đỉnh điểm, tay muốn trao mà lòng không nỡ. Đó là sự mâu thuẫn giữa thân phận và nhân cách, giữa lí trí và tình cảm nơi Kiều. Có lẽ với nàng lúc này đây, tình chưa cạn mà đành phải dứt là nỗi đau khôn cùng, sống mà không có được hạnh phúc thì khác gì không tồn tại, vì vậy mà cái chết cứ ám ảnh trong tâm trí nàng.
Sáu câu cuối đoạn trích là lời độc thoại đầy thổn thức của Kiều. Nàng như quên hẳn mình đang trò chuyện với Vân mà sống trong tâm trạng của chính mình, lời day dứt thốt lên trong nỗi mặc cảm phụ tình:
“Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
Phận sao, phận bạc như vôi?
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”.
Kiều gửi trăm nghìn lạy cho tình quân của mình là hành động tạ từ tha thiết, chân thành, là cái cúi chào tạm biệt trong nỗi đau chia ly. Tơ duyên tưởng sẽ dài lâu, bền đẹp nào ngờ “ngắn ngủi” giữa đoạn đường. Kiều trách phận mình bạc bỗi như vôi trầu, như hoa chảy bèo trôi giữa dòng, đành chấp nhận tình lỡ làng, xa cách. Thành ngữ “bạc như vôi” cất lên trong tiếng đau thương rỉ máu của Kiều nghe sao xót xa, bi ai đến phẫn cực.
“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Đến cuối cùng, Kiều vẫn nghĩ cho người khác. Nỗi đau mà nàng đang chịu vô bờ mà vẫn tự trách mình là kẻ phụ bạc, lo lắng cho người thương. Những gọi Kim Lang cất lên trong tha thiết càng tô đậm thêm trái tim nhân hậu, trọng nghĩa trọng tình của Thuý Kiều.
Đoạn trích “Trao duyên” tuy không quá dài là một đoạn tích vô cùng đặc sắc. Qua đó là thấy được vẻ đẹp của một tấm lòng thuỷ chung, son sắt, thấu hiểu nỗi đau đớn giằng xé tâm can của người con gái trong tình yêu và cảm nhận được tính nhân văn cao cả trong từng tứ thơ mà Nguyễn Du sáng tạo nên.
Cảm nhận về đoạn trích Trao duyên – Mẫu 2
Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc Việt Nam. Ông sống trong giai đoạn lịch sử đầy bão táp , cái xã hội bị đồng tiền chi phối. Trong cái xã hội ấy Nguyễn Du đã chứng kiến rất nhiều cảnh bất công cũng như cái xã hội thối nát bấy giờ. Ông có cảm thông sâu sắc với nỗi bất hạnh của người phụ nữ lúc bấy giờ. Ông viết ra rất nhiều tác phẩm nổi tiếng để nói thay cho tấm lòng đầy ai oán, đáng thương với người phụ nữ bất hạnh. Trong đó có kiệt tác “Truyện Kiều” trong truyện có đoạn trích “Trao duyên” mang âm hưởng bi kịch của sự đứt đoạn một tình yêu đẹp. Đoạn trích miêu tả tình cảnh trớ trêu của Kiều khi phải trao duyên cho em. Đồng thời làm rõ diễn biến tâm trạng đau khổ tuyệt vọng của nàng khi tình yêu tan vỡ, mình phải buộc phụ lòng Kim Trọng
Sau đêm thề nguyền giữa Kim Trọng và Thúy Kiều, Kim Trọng phải về hộ tang chú ở Liễu Dương. Tai nạn ập đến với gia đình Thúy Kiều, Kiều phải buộc bán thân để chuộc cha và em. Đêm trước ngày theo Mã Giám Sinh, Kiều đã nhờ cậy Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng.
Đem tình yêu của mình cho người khác là một bất đắc dĩ, vì Kiều không thể làm khác hơn vì đã lỡ hứa hẹn với chàng Kim. Chuyện vợ chồng là chuyện trăm năm, trao duyên trong hoàn cảnh Thúy Kiều là một truyện khó nói và tế nhị vì Vân chưa biết gì về mối tình của Kiều và chàng Kim. Bốn câu thơ thể hiện tư thế, hình ảnh Kiều khi nhờ Vân nối duyên với người yêu mình:
“Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.”
Những điều Kiều sắp nói với vân thực sự quan trong và thiêng liêng. Đó là “cậy, lạy, thưa” thể hiện niềm tin chỉ có Vân là người mà Kiều tin cậy nhất. “Cậy” có sức nặng của niềm tin. Ở đây tác giả dùng “chịu lời” chứ không phải nhận lời là bắt người mình tin phải nghe theo và khó lòng từ chối. “Ngồi lên, lạy, thưa” là những thái độ của bề trên, những người có ơn với mình.
Từ những câu thơ trên ta nhận ra dù trong hoàn cảnh tan nát thì Kiều vẫn dùng những lời lẽ đoan trang tế nhị thể hiện sự nhờ vả khẩn khoản của Kiều.
Kiều đau đớn khi tâm sự với em về mối tình của mình. Hình ảnh “quạt ước, chén thề” điệp từ “khi” diễn tả tình cảm gắn bó thân thiết, sâu sắc. “Đứt gánh tương tư” là sự mong manh, tan vỡ đột ngột, bất ngờ. Kiều xin em chắp nối tơ thừa của mình trả nghĩa cho Kim Trọng. “Mặc em” là phó mặc, ủy thác vừa có ý mong muốn vừa có ý ép buộc Vân phải nhận lời với mình:
“Kể từ khi gặp chàng Kim ,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”
Trong cái xã hội phong kiến đầy rẫy sự bất công khiến cho nàng phải chịu khổ. Cha nàng bị kẻ gian hãm hại phận làm con nàng phải bán mình chuộc cha. Chữ hiếu làm tròn thì đồng nghĩa với chữ tình kia không vẹn
Nàng tự thấy Thúy Vân vẫn đang còn trẻ và là người duy nhất nàng tin cậy được nên yên tâm gửi lại mối tình này cho em:
“Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”
Kiều mong Vân xốt tình chị em máu mủ ruột già mà đồng ý chuyện mình bén duyên với Kim Trọng. Mai kia Kiều không còn trên đời nữa thì cũng vui lòng khi Vân chấp nhận mối tơ duyên này.
Đến đây Kiều lại đưa ra những kỉ vật tình yêu giữa nàng với Kim Trọng để trao cho Vân. Trao đi tì sẽ không còn là của mình nữa nhưng Kiều vẫn mong em coi đó là kỉ vật của ba người:
“Chiếc thoa với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên!
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ gió cây,
Thấy hiu hiu gió, thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.”
Chiếc vành, bức tờ mây gợi tình cảm sâu nặng, lời thề ước thiêng liêng của Kim-Kiều. Phím đàn, mảnh hương nguyền trở thành ngày xưa, quá khứ. Những kỷ vật quý giá thiêng liêng chứng minh cho tình yêu đẹp. Trao kỷ vật đó là mâu thuẫn giữa hoàn cảnh bắt buộc và nội tâm của Kiều khẳng định giữa tình cảm và lý trí , nhân cách và thân phận của Kiều. Tâm trạng của Kiều chứa đầy mâu thuẫn giữa hành động và lời nói, lý trí và tình cảm
“Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
Phân sao phận bạc như vôi?
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Kiều hình dung ra viễn cảnh đối lập nhau. Một bên là Thúy Vân và kim Trọng sum họp và một bên là oan hồn bạc mệnh của nàng. Dù nàng có chết thì mối tình của nàng với chàng Kim vẫn còn nặng. Trong lúc này thì sự bối rối, sự oan của mình làm cho Kiều không còn nghĩ tới mình đang nói chuyện cho mình nghe. Kiều tiên đoán trước cảnh tượng oan nghiệt, xót xa đang đợi mình phía trước.
Tình yêu mất xem như kiều đã chết, cái chết trống trải khi không có tình yêu, đó là cái chết tâm hồn. Tiếng nói thương xót cho thân phận của con người thiết tha với tình yêu. Chuyển từ đối thoại với em sang độc thoại nội tâm. Trao kỷ vật mà lòng thổn thức, đau lòng
Nàng lạy trăm nghìn cái gửi cho tình quân của mình như thể hiện lời xin lỗi chân thành cũng như cái cúi chào tạm biệt trước khi chia ly. Tơ duyên tưởng chừng sẽ cùng nhau đi tới cùng trời cuối đất nhưng mà ngắn ngủi có ngần ấy thôi
Đoạn trích trao duyên quả là một đoạn trích hay và giàu ý nghĩa. Nó không chỉ nói lên được tâm trạng của Thúy Kiều mà còn thể hiện được bộ mặt xã hội phong kiến đầy những bất công. Tình duyên của người con gái vì thế mà lỡ làng. Dù nàng có đi đâu thì nàng cũng vẫn nhớ về mối tình cùng chàng Kim Trọng.
Xem thêm: Phân tích bài Trao duyên của Nguyễn Du
Cảm nhận về đoạn trích Trao duyên – Mẫu 3
Nhắc đến văn học Việt Nam, ngay cả bạn bè quốc tế, không ai không biết đến “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du. 3245 câu thơ lục bát, mỗi câu đều thấm vào lòng người, rung động cả thời gian. “Trao duyên” là một trong những đoạn trích đặc sắc trong truyện Kiều. Đoạn trích đã tái hiện thành công diễn biến tâm lí phức tạp và sự giằng xé tâm trạng của Kiều trong đêm cậy nhờ Thúy Vân trả ân nghĩa cho chàng Kim.
Thúy Kiều và Kim Trọng gặp nhau, trai tài gái sắc đem lòng cảm mến. Một đêm trăng thanh đã định ra lời thề nguyền. Song Kim Trọng phải về quê chịu tang chú ruột. Biến cố cũng bất ngờ ập đến với gia đình Thúy Kiều. Để cứu cha và em trai, Kiều buộc phải bán mình cho Mã Giám Sinh. Vì làm tròn chữ hiếu, nàng đành phải từ bỏ mối tình tốt đẹp với Kim Trọng. Lời thề nguyền trước đó không bao lâu, Kiều không thể thực hiện được. Vào đêm trước ngày theo Mã Giám Sinh, Thúy Kiều quyết định nhờ cậy Thúy Vân thay mình trả nghĩa tình cho Kim Trọng.
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”
Trong gia đình Vương ông, Thúy Kiều là chị, Thúy Vân là em. Kiều vốn có vai vế cao hơn so với Thúy Vân. Nhưng khi trao duyên, từ hành động đến cử chỉ, Thúy Kiều đều tự hạ mình để khẩn cầu em. Những từ ngữ “cậy”, “chịu” trong lời nói và hành động “lạy”, “thưa” khiến cho lời nhờ cậy trở nên vô cùng tha thiết. Không khí cuộc trò chuyện từ đó cũng trở nên nghiêm túc, thiêng liêng hơn. Không phải “nhờ” mà là “cậy”. “Cậy” vừa mang theo sự khẩn cầu thiết tha vừa vô hình tạo ra sức nặng. Dù muốn em thay mình nối tiếp mối duyên với Kim Trọng. Song Thúy Kiều vẫn hiểu rằng như thế là bất công với Thúy Vân. Những lời nói và hành động trái với vai vế lễ nghi, chứa đầy sự trang trọng do vậy mới xuất hiện.
Là chị, nhưng Kiều không đứng ở vị trí của người chị mà dùng tư thế của người chịu ơn để nói với Thúy Vân. Lời nhờ cậy ngỏ ra vẫn còn dè dặt, không bắt ép mà “mặc em” quyết định. Tình yêu với Kim Trọng không phải mờ nhạt thoáng qua mà là khắc cốt ghi tâm. Từ bỏ, Kiều phải chịu đựng nỗi đau tan nát cõi lòng. Nhưng ngay cả trong hoàn cảnh ấy, cách ứng xử của Kiều vẫn thể hiện sự sắc sảo, thông minh khôn khéo và tế nhị.
Để thuyết phục Thúy Vân, Kiều đã nói về cảnh ngộ bắt buộc của mình và mối tình dang dở với chàng Kim:
“Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”
“Quạt ước” và “chén thề” là những hình ảnh ước lệ tượng trưng gợi nhắc những kỉ niệm tình yêu đẹp đẽ với chàng Kim. Đồng thời cũng như một lưỡi dao sắc, gợi bao đau đớn, xót xa của hiện thực. Tình yêu đôi lứa bị chia cắt, dang dở.
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối vẫn còn thơm lây”
Trong sâu thẳm tâm hồn người con gái tài sắc vẹn toàn là những tâm sự và nỗi đau khắc cốt ghi tâm. Từng câu từng chữ đều thăm thẳm đớn đau xé lòng. Kiều mong Thúy Vân thấu hiểu và đồng ý lời thỉnh cầu của mình. Thậm chí, Thúy Kiều nhắc đến cả tình thân ruột thịt và cái chết. Nguyện ước trao duyên quả thật tha thiết, xót xa khôn cùng. “Thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối” đều là những lí lẽ thuyết phục khiến Thúy Vân không thể chối từ. Ngoài ra cũng như mang theo mà dự cảm không lành của nàng về tương lai, số phận bi kịch nhiều sóng gió.
Sau khi thuyết phục em bằng lời lẽ khéo léo, thấu tình đạt lí, Thúy Kiều đã trao lại cho Thúy Vân những kỉ vật tình yêu của mình với Kim Trọng, hoàn tất nghi thức trao duyên:
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người bạc mệnh ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”
Tất cả những kỉ vật như “chiếc vành”, “bức tờ mây”, “phím đàn”, “mảnh hương nguyền” đều là minh chứng cho một đoạn tình cảm sâu nặng, minh chứng cho một mối tình đẹp đẽ mang tên Kim – Kiều. Dù dang dở, dù thuộc về quá khứ, nó vẫn vô cùng thiêng liêng với Kiều, trao lại cho em, lòng nàng không thể nén được nỗi xót xa, không nỡ. Đây chính là thời điểm lí trí và tình cảm của nàng xảy ra mâu thuẫn.
Hai từ “của chung” thể hiện sự lúng túng, ngập ngừng, cho thấy tâm trạng của Kiều khi trao lại kỉ vật cho em. Lí trí thì mách bảo dứt khoát trao đi nhưng tình cảm thì lại không thể. Nếu như trước đó, Kiều tỏ ra đầy dứt khoát, khôn khéo trong lời nói. Thì đến đây, câu từ đều thấm đượm sự tiếc nuối, xót xa. Từng lời nói như nghẹn lại, trực trào nức nở, mang nặng nỗi đau xé ruột xé gan của người con gái lần đầu rung động trước những ngang trái cuộc đời.
“Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này,
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin chén nước cho người thác oan”
Kiều dường như có dự cảm về cuộc đời mình và cái chết. Nàng tự nhận mình bạc mệnh, nghĩ đến cả tình cảnh mình chết đi. Dù phải đến một thế giới khác, dù không thể trở lại cuộc sống bình thường và số phận mong manh. Kiều vẫn không hề thanh thản mà còn nặng lòng hơn với tình duyên, canh cánh vẫy vùng trong sự bất lực thác oan, đau đớn.
Chấp nhận trao duyên cũng là chấp nhận từ bỏ đoạn tình cảm tốt đẹp này, cắt đứt mối liên hệ với chàng Kim. Vậy nên, khi trao kỉ vật cho Thúy Vân, linh hồn của nàng dường như cũng đánh mất. Nỗi đau đớn bấy giờ không kìm nén nỗi mà trào dâng trong tâm trí bế tắc, túng quẫn:
“Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể sao cho xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng
Ôi Kim lang! Hỡi Kim Lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”
Dù do tình cảnh ép buộc, dù do sóng gió tai ương bất ngờ ập đến. Nàng vẫn cảm thấy mình là người có lỗi, mình là người đã cô phục chàng Kim. Tiếng gọi Kim Trọng cất lên tha thiết và nghẹn ngào. Cả đoạn thơ như những tiếng than đứt ruột. Mọi bi kịch, mọi khổ đau và tình cảm sâu nặng của Thúy Kiều dường như đã lên đến đỉnh điểm. Song, chúng ta vẫn nghe thấy trong đó cả tiếng lòng cảm thông của tác giả và sự trân trọng cô gái trọng nghĩa tình.
“Trao duyên” là bức tranh tái hiện bi kịch tình yêu tan vỡ muôn vàn xót xa của Thúy Kiều. Qua đó tác giả đã làm bật lên được vẻ đẹp của Thúy Kiều: thủy chung da diết nhưng cũng sắc sảo mặn mà. Đồng thời, đại thi hào Nguyễn Du cũng thể hiện được tài năng miêu tả tâm lí nhân vật bậc thầy. Không chỉ là tấm lòng đồng cảm xót thương, Nguyễn Du còn dường như hóa thân thành nhân vật để tự trải lòng. Nội tâm Thúy Kiều nhờ đó được tái hiện vô cùng toàn diện. Đằng sau tất cả những điều đó là một tấm lòng nhân hậu, tinh thần nhân đạo và con mắt nhìn thấu sáu cõi của Nguyễn Du.
Có thể nói, đoạn trích là sự kết hợp hài hòa giữa thể thơ lục bát và các biện pháp tu từ. Đặc biệt qua các thành ngữ dân gian, ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ bác học, Nguyễn Du đã khắc họa thành công tâm trạng đau đớn dằn vặt của Kiều khi trao duyên. Từ đó làm nổi bật hình ảnh người con gái trọng tình trọng nghĩa. Đoạn trích không chỉ làm nổi bật tài năng miêu tả tâm lí nhân vật bậc thầy của đại thi hào Nguyễn Du. Mà còn thể hiện cả tấm lòng nhân đạo sâu sắc, tình yêu thương và sự cảm thông của Nguyễn Du dành cho nhân vật.
Đoạn trích “Trao duyên” với những giá trị về nội dung và nghệ thuật ấy thực sự đã mang đến cho chúng ta cái nhìn chân thực hơn về thời đại. Thời đại đồng tiền có thể chà đạp số phận con người, băng hoại đạo đức và đầy rẫy bất công. Để rồi rất nhiều năm qua đi, người ta vẫn nhớ mãi tác phẩm mang đầy giá trị nhân đạo “Truyện Kiều”.
Cảm nhận đoạn trích Trao duyên – Mẫu 4
Nguyễn Du là nhà thơ lỗi lạc của nền văn học Việt Nam. Thông qua kiệt tác “Truyện Kiều”, tác giả đã tái hiện đầy chân thực hình ảnh một xã hội phong kiến cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX mục nát, bất công đã chèn ép, đùn đẩy con người đến bước đường cùng. “Trao duyên” là một trong những đoạn trích đặc sắc trong truyện Kiều, tuy chỉ là một trích đoạn ngắn nhưng đã phần nào thể hiện được diễn biến tâm lí phức tạp, sự giằng xé trong tâm trạng của nàng Kiều trong đêm cậy nhờ Thúy Vân trả ân nghĩa cho chàng Kim.
Sau khi bị thằng bán tơ hãm hại, gia đình gặp biến cố, Thúy Kiều đã quyết định bán mình cho Mã Giám Sinh để cứu cha và em trai bị bắt giam. Đặt chữ hiếu lên trên cũng có nghĩa Thúy Kiều phải từ bỏ mối tình đẹp còn đang dang dở với Kim Trọng. Không thể thực hiện lời thề nguyền lứa đôi, Thúy Kiều nhờ Thúy Vân thay mình hoàn thành lời hứa với Kim Trọng dẫu trong lòng có bao đau đớn, xót xa:
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”
Xét về địa vị trong gia đình, Thúy Kiều là chị, người có vai vế cao hơn so với Thúy Vân. Tuy nhiên, khi trao duyên, Thúy Kiều đã sử dụng những từ “cậy”, “chịu” và có những hành động “lạy”, “thưa” khiến cho lời nhờ cậy càng trở nên tha thiết; không khí của cuộc trò chuyện vì vậy cũng nghiêm túc, thiêng liêng hơn. Thúy Kiều sử dụng từ “cậy” mà không phải từ “nhờ” vừa tạo ra sự tha thiết trong lời nói vừa tạo ra sức nặng khiến Thúy Vân khó có thể từ chối. Thúy Kiều muốn Thúy Vân thay mình bù đắp cho chàng Kim nhưng cũng hiểu rằng như vậy sẽ bất công, thiệt thòi cho Vân nên đã có những hành động trang trọng, trái với lễ nghi: quỳ, lạy.
Quyết định trao duyên cho Thúy Vân không chỉ thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối của Thúy Kiều với em mà qua những hành động trang trọng còn cho thấy Thúy Kiều thực sự đã coi Thúy Vân như ân nhân, người đã giúp đỡ mình trong cơn nguy khốn. Những lời nói của Thúy Kiều với Thúy Vân khi trao duyên đều vô cùng dứt khoát, mạnh mẽ “Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”, tuy nhiên đằng sau sự vô tư, mạnh mẽ ấy lại là nỗi đau thấu tâm can bởi với Thúy Kiều, mối tình với Kim Trọng đâu phải mối tình trăng gió thoáng qua mà là mối tình khắc cốt ghi tâm.
Sau khi thuyết phục em bằng những lời lẽ và hành động sắc sảo, khiến em không thể từ chối, Thúy Kiều đã có những tâm sự đầy thiết tha về mối tình dang dở của mình với chàng Kim:
“Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”
Kiều đã kể cho em về cuộc gặp gỡ và đính ước cùng chàng Kim. Những hình ảnh ước lệ “quạt ước”, “chén thề” một lần nữa làm sống dậy những kỉ niệm tình yêu đẹp đẽ, sâu đậm với chàng Kim nhưng cũng gợi ra bao đau đớn, xót xa của thực tại khi hiện thực trái ngang đã chia rẽ tình yêu đôi lứa. Kim Trọng về quê chịu tang chú, Thúy Kiều chấp nhận bán mình cứu cha, đặt chữ hiếu lên trên chữ tình khiến cho tình duyên không thể vẹn tròn “Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”.
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối vẫn còn thơm lây”
Thúy Kiều mang những tâm sự, nỗi đau từ tận đáy lòng để giãi bày cùng Thúy Vân chỉ hi vọng Vân có thể thấu hiểu và đồng ý với yêu cầu của mình. Để lời yêu cầu có thêm sức nặng, Thúy Kiều đã nhắc đến tình máu mủ và cả cái chết, thế mới thấy nguyện ước trao duyên của Thúy Kiều tha thiết, đau đớn đến nhường nào. “Thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối” không chỉ là những lí lẽ thuyết phục khiến Thúy Vân không thể từ chối mà còn là những dự cảm không lành của Thúy Kiều về tương lai, số phận của mình.
Qua lời trao duyên của Thúy Kiều, ta có thể thấy được sự sắc sảo, thông minh, khôn khéo mà thấu tình trong lời thuyết phục của nàng. Để hoàn tất nghi thức của việc trao duyên, Thúy Kiều đã trao lại cho Thúy Vân những kỉ vật tình yêu của mình với Kim Trọng:
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người bạc mệnh ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”
Những kỉ vật tình yêu “chiếc vành”, “bức tờ mây”, “phím đàn”, “mảnh hương nguyền” gợi ra đoạn tình cảm sâu nặng, thiêng liêng của mối tình Kim – Kiều. Vì nó gắn với tình yêu, những nguyện thề thiêng liêng nên khi trao lại cho Thúy Vân, Kiều lại có chút xót xa, không lỡ. Đến đây, ta có thể thấy được sự mâu thuẫn giữa lí trí và tình cảm của nàng Kiều. Nếu như những câu thơ trên, Kiều thể hiện sự dứt khoát, mạnh mẽ đầy khôn khéo khi trao lời thì đến lúc trao kỉ vật lại thể hiện rõ sự tiếc nuối, xót xa. Lời nói như uất nghẹn, như chực trào nức nở đã thể hiện nỗi đau đứt ruột của người con gái trước những ngang trái của cuộc đời.
Chấp nhận trao duyên cũng là chấp nhận chặt đứt mối quan hệ với chàng Kim. Sau khi trao lại những kỉ vật cho Thúy Vân, trong nỗi đau đớn cùng cực, Thúy Kiều thẫn thờ như người vừa đánh mất linh hồn, chỉ còn lại những độc thoại đau đớn cùng một tâm trí bế tắc, túng quẫn:
“Ôi Kim lang! Hỡi Kim Lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”
Đoạn trích “Trao duyên” đã giúp ta hiểu rõ hơn về tài năng miêu tả tâm lí nhân vật bậc thầy của đại thi hào Nguyễn Du, đặc biệt trong việc khắc họa tâm trạng đau đớn, xót xa của nàng Kiều khi quyết định trao duyên, đoạn tuyệt mối tình đẹp đẽ, thiêng liêng với chàng Kim. Cũng qua đây, tác giả lên án xã hội phong kiến bất công, đồng thời bày tỏ sự đồng cảm của mình với số phận đau khổ, ngang trái của con người, nhất là người phụ nữ trong xã hội xưa.
Cảm nhận đoạn trích Trao duyên – Mẫu 5
Nguyễn Du – nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa của văn học Việt Nam, tác giả của thi phẩm đã đi sâu và luôn tồn tại trong tâm thức người đọc khi nhắc đến ông: “Truyện Kiều”. Truyện Kiều là sáng tác chữ Nôm đặc sắc từ nội dung đến nghệ thuật nhưng ấn tượng nhất đối với tôi đó chính là đoạn trích “Trao duyên” nằm trong tác phẩm nghệ thuật này.
Nhan đề đoạn trích là “Trao duyên” nhưng trớ trêu thay đây không phải là cảnh trao duyên thơ mộng của nam nữ như trong ca dao xưa ta vẫn thường gặp. Có đọc mới hiểu, trao duyên ở đây nghĩa là gửi gắm tình cảm, duyên phận của mình cho một người khác, nhờ người khác chắp nối tiếp tình cảm dở dang của mình. Như trong sự trao duyên của Kiều, hoàn cảnh thật éo le, cay đắng!
“Cậy em em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Một sự nhún nhường gần như van vỉ, nàng phải lạy em mình như lạy một vị ân nhân, một bậc bề trên. Không phải là “nhờ” mà là “cậy”, từ “ cậy” mang bao nhiêu sự thiêng liêng, lòng tin tưởng kèm với “lạy” và “thưa”, tất cả gộp lại tạo nên sự thay bậc đổi ngôi giữa hai chị em. Và điều đó trở nên thật tài tình, Nguyễn Du như đọc thấu được nỗi lòng nhân vật.
“Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.”
“Gánh tương tư” thật đâu có nhẹ nhàng gì. Nhưng gánh nặng vật chất thì còn có thể san sẻ, nhờ người khác giúp được chứ “gánh tương tư” mà nhờ người khác giúp la điều hiếm thấy xưa nay….Chắc hẳn nàng đã ở trong một tình cảnh khó khăn không còn cách nào khác là phải nhờ đến em “chắp mối tơ thừa”. Từ đầu đến cuối đoạn thơ không hề thấy lời nói của Thúy Vân vì trên hết tình máu mủ ai nỡ từ chối nhau?. Trong tình cảnh bi thương của mình, Thúy Kiều không chỉ trao duyên mà còn trao cả nỗi đau của mình cho em gái
“Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”
Thúy Kiều không chỉ trao duyên mà còn trao cả nỗi đau của mình cho em gái.
Tình cảm Kiều Kim sâu nặng là thế, mặn mà là thế, “ngày quạt ước”, “đêm chén thề” hỏi sao nàng Kiều không khỏi đớn đau, tê tái. Lòng nàng như ngàn kim đâm, rỉ máu xót xa lay động sâu tâm hồn người đọc. Nhưng khi sóng gió gia đình đến, cha bị bắt đi, nay chữ “hiếu” với chữ “tình” không thể song song… Quyết định chọn chữ “hiếu” bán mình chuộc cha là hy sinh chữ “tình”, coi như linh hồn nàng đã mất đi một nửa…Qua lời Thúy Kiều, Nguyễn Du đay nghiến cả một xã hội. Hiếu-tình là hai giá trị tinh thần không thể đặt lên bàn cân được. Một xã hội bắt con người phải lựa chọn những giá trị không thể lựa chọn được thì xã hội đấy là một xã hội tàn bạo
“Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”
Hai chị em đều “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” vậy mà nàng nói ngày xuân em hãy còn dài, đau đớn biết chừng nào!. Thuyết phục em thật khéo léo bằng tình chị em, tình máu mủ ruột thịt, Thúy Kiều vô hình chung đã khiến Thúy Vân không thể nào chối từ. Lời lẽ của nàng là vì lo cho Kim Trọng, mong sao chàng Kim có được hạnh phúc trong tan vỡ. Trong đau khổ tuyệt vọng nàng còn biết lo cho hạnh phúc của người khác, chẳng lo rằng mình có thể sẽ trải qua bao nhiêu cay đắng đến “thịt nát xương mòn”. Thật là một cô gái có đức hy sinh lớn lao. Qua đó Nguyễn Du đã thể hiện giá trị nhân đạo đáng trân trọng ở Kiều…
“Chiếc vành với bức tờ mây,
Duyên này thì giữ vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.”
Trao kỉ vật của mình và chàng Kim cho em, thật sự lòng nàng vẫn cắn rứt lời thề nguyền đêm trăng của mình và Kim Trọng. Nguyễn Du dùng hai hình ảnh đối lập “nên vợ nên chồng”, “người mệnh bạc” để gợi nỗi thương tâm, băn khoăn, chua xót của Kiều.
Toàn bộ đoạn trích là lời thoại của Kiều nói với Thúy Vân. Tuy nhiên, có lúc, Kiều chuyển đối tượng như đang nói với Kim Trọng chứ không còn nói với Thúy Vân nữa. Ý nghĩa sự chuyển đổi đối tượng cho thấy khả năng Nguyễn Du nắm bắt một cách tinh tế quy luật diễn biến tâm trạng của nhân vật, đồng thời cho thấy khả năng miêu tả nội tâm nhân vật của Nguyễn Du. Ngoài ra ta có thể thấy được giá trị nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du đối với nàng Kiều trong từng lời nói…
Đoạn trích “Trao duyên” thật sự đã làm rung động trái tim của không chỉ riêng tôi mà hẳn đã đi vào lòng không ít các bạn đọc khi xem “Truyện Kiều”.
Cảm nhận đoạn trích Trao duyên – Mẫu 6
Đoạn trích “Trao duyên” trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du là một đoạn trích vô cùng xúc động, thể hiện tâm trạng xót xa, của nàng Thúy Kiều khi muốn trao lại tình cảm của mình với Kim Trọng nhường lại cho em gái của mình là Thúy Vân để bán mình chuộc cha và em trai đang bị giam trong ngục tù.
Tâm trạng đau đớn Thúy Kiều khi phải từ bỏ mối lương duyên trời định của mình, từ bỏ những kỉ niệm ngọt ngào vẫn còn in đậm sâu sắc trong tâm can của nàng.
Mối tình Thúy Kiều và Kim Trọng là một mối tình vô cùng xứng đôi vừa lứa thể hiện một mối tình “Trai tài gái sắc” vô cùng viên mãn, nhưng vì tai biến của gia đình nên Thúy Kiều quyết định bán mình, hy sinh thân mình để gia đình cô được bình yên trở lại. Hành động “bán mình chuộc cha” thể hiện sự giằng xé trong tim của Thúy Kiều trước bên hiếu, bên tình vô cùng đau đớn.
Đoạn trích “Trao duyên” được thể hiện qua hình ảnh vô cùng ngược đời, khi Thúy Kiều làm chị nhưng lại quỳ lạy em mình là Thúy Vân, khi cô rơi vào tình thế là người phải nhờ cậy em mình. Những câu thơ thể hiện sự chua xót tận tâm trí của người con gái hiền lương, đoan trang, hiếu thuận Thúy Kiều.
Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Những câu nói như “cậy em” rồi thì “ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa” thể hiện sự nhờ vả vô cùng cấp thiết khẩn khoản của nàng Thúy Kiều dành cho em gái của mình là Thúy Vân, nên nàng mới tỏ vẻ vô cùng thật tâm, thể hiện một việc vô cùng quan trọng của nàng muốn nhờ cậy em gái của mình. Bởi tình duyên là việc đôi khi thật sự rất khó nhờ vả.
Trong hai câu thơ tiếp theo Thúy Kiều bắt đầu hồi tưởng lại mối tình duyên đang độ xuân thì tươi đẹp của mình với chàng Kim Trọng, thể hiện sự không nỡ của người con gái khi phải từ bỏ tình duyên của mình.
Thúy Kiều chua xót khi nghĩ tới Kim Trọng khi rồi đây khi mãn tang chú, chàng quay lại tìm nàng nhưng nàng đã đi xa mãi mãi, phiêu dạt tới phương trời nào nàng cũng không biết trước được tương lai của mình. Nhưng nàng yêu Kim Trọng nên khi nghĩ tới việc làm chàng đau khổ thất vọng vì mất người yêu thì trái tim nàng vô cùng đau đớn.
Thúy Kiều biết Thúy Vân không hề yêu Kim Trọng và ngược lại Kim Trọng cũng không có tình ý gì với em gái mình. Nhưng nàng lại muốn gắn kết se duyên cho hai người mà nàng yêu thương. Vì Kim Trọng là chàng trai vô cùng tuấn tú, có học thức biết lễ nghĩa là người tốt. Thúy Vân hiền ngoan thục nữ hai người thành một đôi thì Thúy Kiều có ra đi cũng yên lòng.
Chính vì vậy, Thúy Kiều đã kể lại những tình cảm trong lòng mình dành cho Kim Trọng như những lời tâm sự giữa hai chị em gái với nhau để Thúy Vân hiểu được ngọn ngành.
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai
Xã hội phong kiến thực sự vô cùng tàn nhẫn bất công với những cô gái đoan trang đức hạnh như Thúy Kiều và nhiều người con gái khác. Cuộc sống gia đình nàng đang êm ấm bình yên nhưng lại bị sóng gió ập đến khiến gia đình cô tan nát, gia biến, nhìn cha và em trai bị bắt vào ngục thân làm chị cả Thúy Kiều không thể nào đứng nhìn mà phải nghĩ cách để cứu cha và em trai của mình.
Thể hiện một người con gái vô cùng hiếu thuận, có trái tim nhân hậu luôn hy sinh vì người khác. Việc trao duyên cho em là Thúy Vân thể hiện việc Thúy Kiều là người luôn biết nghĩ cho người khác, lo lắng chu toàn mọi việc. Cô không chỉ nghĩ tới cha mẹ, người thân trong gia đình mà còn thương Kim Trọng người thân của mình.
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây
Thúy Kiều mong Thúy Vân nghĩ tình chị em trong gia đình những người thân máu mủ ruột già mà thương cho phận của chị mình, thương cho nỗi khổ mà Thúy Kiều đang phải gánh chịu mà chấp nhận lời đề nghị của mình. Thúy Kiều cũng nói rõ rằng nếu Thúy Vân chấp nhận lời đề nghị của mình thì dù thịt nát xương tan nơi xa xôi nàng cũng ngậm cười.
Trong đoạn trích “Trao duyên” Thúy Kiều đã mang kỷ vật hẹn ước định tình của mình với Kim Trọng trao cho Thúy Vân thể hiện một tấm chân tình mối tình tình chị duyên em từ nay đã được để lại cho Thúy Vân. Thúy Vân sẽ thay chị mình là Thúy Kiều chăm sóc lo lắng yêu thương người yêu của chị là Kim Trọng một hành động vô cùng nhân văn tình người của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng.
Chiếc thoa với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung
Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai
Kỷ vật của Thúy Kiều là một chiếc trâm và một bức tờ mây, thể hiện ước vật hẹn ước của nàng Thúy Kiều với Kim Trọng đã từng nguyện thề sẽ chờ đợi nhau bên nhau trọn đời. Nhưng nay mọi thứ chỉ là kỷ niệm tồn tại trong trí nhớ ký ức của Thúy Kiều. Nàng đã trao lại những kỷ niệm của mình cho Thúy Vân thể hiện việc dứt tình cương quyết ra đi của nàng.
Dù chia tay nhưng trong tâm hồn của Thúy Kiều vẫn luôn nhớ tới Kim Trọng vẫn nặng lời thề nàng đã hứa với chàng. Chính vì vậy, Thúy Kiều đã đau đớn thốt lên rằng “Ôi kim lang hỡi kim lang thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây
Thúy Kiều đã gửi tới người tình của mình trăm lời xin lỗi khi phụ tình của chàng, không giữ trọn vẹn lời thề nguyên là người bội bạc phụ tình trước. Nhưng hoàn cảnh gia đình nàng khiến cho Thúy Kiều không có sự lựa chọn nào khác.
Nghệ thuật so sánh đặc sắc của Nguyễn Du khi so sánh phận của mình với vôi một thứ trắng bạc, có sức làm phai nhạt mài mòn nhiều thứ.
Đoạn trích “Trao duyên” là một đoạn tích vô cùng hay thể hiện tính nhân văn của nó nói lên tâm trạng giằng xé của Thúy Kiều khi phải lựa chọn bên hiếu và tình, nàng đã chọn chữ hiếu, nhưng vô cùng xót xa khi nghĩ tới tình duyên của mình.
Tình duyên của người con gái nặng lời thề nhưng nay phải thành người bội bạc phụ tình người con trai mình đã hẹn ước, nàng thấy xót xa khi không giữ được lời thề hôm nào với Kim Trọng.
Đăng bởi: THPT Nguyễn Đình Chiểu
Chuyên mục: Tài Liệu Lớp 10