Phân tích đoạn thơ Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga
Phân tích đoạn thơ Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga gồm dàn ý chi tiết, kèm 15 bài văn mẫu, giúp các em học sinh lớp 9 tham khảo, tích lũy thêm vốn từ để viết bài văn phân tích hay hơn.
Bạn đang xem: Phân tích đoạn thơ Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga
Với 14 bài phân tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga, sẽ giúp các em củng cố lại kiến thức Ngữ văn lớp 9 của mình để đạt kết quả cao trong các bài kiểm tra, bài thi sắp tới. Vậy mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của THPT Nguyễn Đình Chiểu nhé:
Dàn ý phân tích đoạn thơ Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga
I. Mở bài:
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm và đoạn trích:
- Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888) là một nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ 19.
- Truyện Lục Vân Tiên là một trong những tác phẩm đặc sắc nhất của Nguyễn Đình Chiểu, nói về nhân vật Lục Vân Tiên – người anh hùng trượng nghĩa, văn võ song toàn và phẩm chất tốt đẹp.
- Đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga nằm ở phần đầu của truyện thể hiện khát vọng hành đạo giúp đời của tác giả và khắc họa những phẩm chất tốt đẹp của hai nhân vật Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga.
II. Thân bài:
* Luận điểm 1: Lục Vân Tiên và hành động đánh cướp
– Cảnh Lục Vân Tiên gặp bọn cướp đang hoành hành:
- Chàng không chỉ nhân nghĩa trong hành động mà còn thể hiện trong lời nói.
- Chàng chỉ trích và phê phán lũ giặc cướp nhưng cũng chính là lời tuyên bố về quan điểm sống đầy cao đẹp của chàng.
- Giữa đường gặp chuyện bất bình thì sẵn sàng xả thân ra tay cứu giúp.
– Cảnh Lục Vân Tiên chống lại bọn cướp:
- Vân Tiên chỉ có một mình, tay không đánh cướp
- Không hề run sợ, vẫn “bẻ cây làm gậy” xông vào đánh cướp
-> Hành động nhanh, mạnh, dứt khoát của Vân Tiên được tác giả ví với người anh hùng Triệu Tử khi phá vòng Đương Dương, một anh hùng hảo hán, có khí phách, trượng nghĩa.
=> Trước sức mạnh và tài nghệ của Vân Tiên, bọn cướp đã bị đánh tan tác, nhân nghĩa bao giờ cũng chiến thắng.
=> Hình ảnh một người anh hùng thượng võ, bênh vực kẻ yếu, trừ gian diệt ác cho nhân dân.
* Luận điểm 2: Lục Vân Tiên gặp Kiều Nguyệt Nga
- Vân Tiên “động lòng” thương xót, ân cần hỏi han, an ủi
- Khi nghe trong kiệu vọng ra tiếng nói muốn được tạ ơn, Vân Tiên vội gạt đi ngay
- Vân Tiên không muốn nhận những cái lạy tạ của hai cô gái
- Không nhận chiếc trâm vàng mà chỉ cùng Kiều Nguyệt Nga xướng họa một bài thơ
-> Dường như đối với Vân Tiên, làm việc nghĩa là bổn phận, lẽ tự nhiên
=> Lục Vân Tiên không chỉ là một người có học thức mà còn là một người hào hiệp, trượng nghĩa. Đối với Vân Tiên, chàng coi việc nhân nghĩa trên đời là điều tất yếu, nếu làm ơn mà vì được đền đáp, trông ngóng đến việc trả ơn thì đó không còn là người anh hùng.
* Luận điểm 3: Hình ảnh Kiều Nguyệt Nga.
- Là con gái quan tri phủ.
- Xinh đẹp, nết na, có học thức.
- Cách xưng hô vừa thận trọng vừa khiêm nhường
- Nói năng dịu dàng, mực thước
- Băn khoăn tìm cách trả ơn Vân Tiên
- Tự nguyện gắn bó cuộc đời mình với Vân Tiên.
-> Kiều Nguyệt Nga là người ân cần, có tình nghĩa trước sau.
=> Tác giả thông qua Kiều Nguyệt Nga để ca ngợi vẻ đẹp chính chuyên của người phụ nữ Việt Nam.
* Đặc sắc nghệ thuật
- Khắc họa nhân vật qua hành động, cử chỉ, lời nói.
- Ngôn ngữ bình dị, mộc mạc, đậm màu sắc Nam Bộ
- Ngôn ngữ kể chuyện tự nhiên, ít trau chuốt, uyển chuyển
- Sử dụng nhiều đối thoại, hành động, ít miêu tả ngoại hình, nội tâm.
III. Kết bài:
- Cảm nhận của em về đoạn trích: Đoạn trích đã khắc họa một cách rõ nét, chân thực và đầy sống động về người anh hùng trượng nghĩa Lục Vân Tiên, đó là một hình mẫu anh hùng lí tưởng và khát vọng về lẽ công bằng ở đời.
Phân tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga – Mẫu 1
Trong nền văn học của Việt Nam ta, nếu như Truyện Kiều của Nguyễn Du được xem là đỉnh cao, là kiệt tác của nền thơ ca bác học trong thể loại truyện thơ Nôm, thì Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu lại được xem là viên ngọc sáng, mang những giá trị nhân văn, nhân bản sâu sắc, hướng con người đến với chữ “Thiện”, thông qua cách sử dụng kết cấu cốt truyện kinh điển trong văn học dân gian phương Đông. Nhân vật chính là người có tài, có nhiều phẩm chất tốt đẹp, nhưng luôn gặp nhiều gian khó và đều vượt qua được nhờ sự nỗ lực của bản thân và sự giúp đỡ của các nhân vật phụ trợ, và cuối cùng là một cái kết có hậu cho nhân vật chính, kẻ ác phải chịu quả báo. Từ đó rút ra bài học nhân sinh sâu sắc về cách con người đối xử với nhau trong cuộc sống, và chân lý không bao giờ thay đổi, ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác.
Tác giả Nguyễn Đình Chiểu là một con người có cuộc đời nhiều đau thương mất mát, bản thân ông không may bị mù khi còn quá trẻ, đường công danh từ đó cũng đứt đoạn, tình riêng lại bị bội ước, cả cuộc đời gói trọn trong giai đoạn nước mất nhà tan, chịu thân phận của một người nô lệ. Tuy nhiên, không đầu hàng với số phận Nguyễn Đình Chiểu có một nghị lực sống phi thường, sau khi bị mù ông trở về quê hương bốc thuốc chữa bệnh cứu người, mở trường dạy học, tích cực tham gia phong trào kháng chiến, đồng thời sáng tác thơ văn, để lại nhiều tác phẩm có giá trị trường tồn mãi với thời gian. Về sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu có thể chia ra làm hai giai đoạn, trước năm 1958 là chủ đề đạo đức với tác phẩm tiêu biểu nhất là Lục Vân Tiên. Sau 1858, là chủ đề yêu nước với các tác phẩm như Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Chạy giặc,…
Lục Vân Tiên, được sáng tác vào khoảng đầu những năm 50 của thế kỷ XIX, thuộc thể loại truyện thơ Nôm bác học, gồm 2082 câu thơ lục bát tất cả. Về giá trị nội dung, Lục Vân Tiên xoay quanh cuộc đấu tranh giữa hai phe thiện và ác, từ đó mang đến giá trị hiện thực, vạch trần bộ mặt của những kẻ bất nhân, bất nghĩa lừa thầy phản bạn, vạch trần những cái xấu, cái bất công trong xã hội. Thứ hai là giá trị nhân đạo vững vàng của tác phẩm, khẳng định và ngợi ca những phẩm chất đẹp đẽ cao quý của con người, như tinh thần trượng nghĩa, lòng hiếu thảo, lòng chung thủy; ca ngợi tình nghĩa giữa con người với con người, như tình mẫu tử, tình nghĩa bạn bè,…; đề cao khát vọng của nhân dân hướng tới lẽ công bằng trong xã hội thiện thắng ác, chính nghĩa thì thắng gian tà; ngoài ra tác phẩm còn lên án những kẻ xấu xa bất nhân bất nghĩa lừa thầy phản bạn. Về giá trị nghệ thuật, Lục Vân Tiên xoay quanh cuộc đấu tranh giữa hai tuyến nhân vật thiện – ác, mang màu sắc Nam Bộ đậm đà về cả ngôn ngữ, tính cách nhân vật,… Đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga thuộc phần đầu của tác phẩm, kể lại việc Vân Tiên đánh cướp Phong Lai để cứu Nguyệt Nga và cuộc đối đáp giữa hai người.
Nhân vật Lục Vân Tiên trong phân đoạn đánh cướp Phong Lai, hiện lên với dáng vẻ của một con người có tinh thần trượng nghĩa, không hề băn khoăn do dự khi đánh cướp, được Nguyễn Đình Chiểu thể hiện một cách nhẹ nhàng trong câu thơ: “Vân Tiên ghé lại bên đàng/Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô”. Điều đó chính tỏ rằng đối với Lục Vân Tiên việc đánh cướp cứu người như là một lẽ tự nhiên, “bẻ cây làm gậy” không màng đến an nguy của bản thân. Nguyên nhân xuất phát từ thái độ bất bình của chàng trước những kể tàn ác xấu xa “đảng hung đồ”, thứ hai là xuất phát từ lòng yêu thương bênh vực cho dân lành bị hãm hại. Ngoài tinh thần trượng nghĩa thì Lục Vân Tiên còn là một anh hùng quả cảm, có võ nghệ cao cường, nếu so với bọn cướp bủa vây bốn phía thì chàng chỉ có một mình, tay không tấc sắt chỉ có một thân cây làm gậy. Đó là trận đánh không cân sức, một bên là tướng cướp hung dữ “Phong Lai mặt đỏ phừng phừng”, quân cướp thì đông đúc, vũ khí gươm giáo đầy đủ. Từ đó tô đậm lòng dũng cảm, sự tài giỏi của Lục Vân Tiên.
“Vân Tiên tả đột hữu xông
Khác nào Triệu Tử phá vòng đương giang
Lâu la bốn phía vỡ tan
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay
Phong Lai trở chẳng kịp tay
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong”
Thế nhưng với sự tài giỏi ứng biến tài tình, Lục Vân Tiên đã xung trận với một khí thế áp đảo “tả đột hữu xông”, được ví như hình ảnh của võ thần Triệu Tử Long thời Tam Quốc một mình, một ngựa phá vỡ vòng vây của Tào Tháo, để cứu đứa con nhỏ của Lưu Bị, thể hiện tầm vóc của người anh hùng với sức mạnh phi thường. Việc sử dụng các từ ngữ Hán việt, nhịp điệu nhanh đã làm nổi bật lên khí thế hào hùng sôi nổi cho trận đánh, cụm từ “tả đột hữu xông” là cụm từ giàu giá trị tạo hình, cho thấy Lục Vân Tiên tung hoành giữa đảng cướp như chốn không người. Bên cạnh việc xây dựng hình tượng người anh hùng Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu còn xây dựng chiến thắng tuyệt đối của chàng trước lũ cướp hung hãn. “Lâu la bốn phía vỡ tan”, hoảng sợ “quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay”, còn kẻ cầm đầu “Phong Lai chẳng kịp trở tay”, trong một thời gian ngắn đã “Bị Tiên một gậy thác rày thân vong”. Thắng lợi trong chớp mắt ấy lại càng tôn lên dáng vẻ quả cảm của người anh hùng có sức mạnh phi thường, phong thái hùng dũng hiên ngang, võ nghệ cao cường, sẵn sàng xả thân vì nghĩa.
Sau khi đánh cướp xong, thì Lục Vân Tiên đã tiến đến hỏi thăm an ủi Kiều Nguyệt Nga, từ đó ta lại thấy được một phương diện khác của người anh hùng này. Lời hỏi thăm rất ân cần, lịch thiệp, “Hỏi: Ai than khóc ở trong xe nầy?” đã cho thấy người anh hùng này không chỉ quả cảm, võ nghệ cao cường mà còn rất giàu lòng nhân hậu. Và sau khi biết được nguyên do thì Lục Vân Tiên chỉ đáp lại bằng một câu ngắn gọn, nhẹ nhàng “Rằng ta đã trừ dòng lâu la” dường như cái trận đánh không cân sức ấy chỉ là một chuyện thoáng qua, thể hiện lòng khiêm nhường, không thích kể công của người anh hùng chân chính. Thứ hai nữa lòng nhân hậu của Lục Vân Tiên, còn thể hiện ở tấm lòng cảm thông, thương xót dành cho những người gặp nạn. Bên cạnh đó vẻ đẹp của người anh hùng còn thể hiện ở sự hiểu biết, một mực giữ gìn lễ nghĩa cho Kiều Nguyệt Nga và cho cả bản thân mình. Lối xưng hô “nàng – ta”, cho thấy tấm lòng trân trọng, thái độ lịch sự của một con người có gia giáo, trở thành một nét đẹp trong lối ứng xử của một người đọc sách thánh hiền.
Và ở trong 6 câu thơ cuối đoạn trích ta lại thấy ở Lục Vân Tiên một lần nữa tấm lòng hào hiệp trượng nghĩa, vì dân trừ hại.
“Vân Tiên nghe nói liền cười
Làm ơn há dễ trông người trả ơn
Nay đà rõ đặng nguồn cơn
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì
Nhớ câu kiến nghĩa bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”
Điều đó thể hiện qua tiếng cười rất vô tư, sảng khoái làm ơn nhưng không màng đến sự đền ơn của người. Tứ hai là thể hiện qua quan niệm về người anh hùng của Lục Vân Tiên “Nhớ câu kiến nghĩa bất vi”, đây là lời thầy dạy trong sách Thánh hiền, là người anh hùng thì phải biết làm việc nghĩa, nếu thấy mà không làm thì không phải là người anh hùng chân chính. Ở Vân Tiên ta còn thấy một phẩm chất, một lối sống cao đẹp của chàng, học đạo phải hành đạo, học đi đôi với hành, sống trong sáng, vô tư, không mưu cầu, kể công. Từ đó rút ra được quan niệm của Nguyễn Đình Chiểu rằng người anh hùng phải là người có tài trí, sức mạnh, sẵn sàng hành động vì nghĩa, mà hình tượng Lục Vân Tiên là hình mẫu lý tưởng, văn võ toàn tài, đại diện cho hình ảnh người quân tử trong xã hội cũ.
Bên cạnh nhân vật chính là Lục Vân Tiên, thì Kiều Nguyệt Nga cũng là một nhân vật được Nguyễn Đình Chiểu khá ưu ái. Thông qua phần nói chuyện với Lục Vân Tiên, thì ta có thể nhận thấy rằng nàng là một người con gái có nề nếp gia giáo, và có học thức. Nguyệt Nga có một xuất thân quyền quý, là tiểu thư khuê các con quan tri phủ Hà Khê, xong nàng lại là người rất giản dị, chân thành, không khoa trương, kênh kiệu đài các. Điều đó bộc lộ ở lời giới thiệu của nàng rất đầy đủ, nhưng vẫn chứng tỏ được sự ngưỡng mộ của mình dành cho Lục Vân Tiên. Lối xưng hô “quân tử-tiện thiếp” và hành động “lạy-thưa” cho thấy sự khiêm nhường, lòng biết ơn rất đỗi chân thành của nàng. Tổng kết lại, Kiều Nguyệt Nga là người con gái thông minh, mực thước và hiểu lễ nghĩa trong lời ăn tiếng nói. Từ câu nói “Làm con đâu dám cãi cha/Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành” cho thấy Nguyệt Nga là người sống đúng với khuôn phép gia đình, với lễ giáo phong kiến. Vượt ngàn dặm từ Tây Xuyên đến Hà Khê để định bề nghi gia nghi thất, không quản khó khăn, mệt nhọc, không quản thân gái dặm trường, thể hiện tấm lòng hiếu thảo với cha mẹ. Từ đó để lại một ấn tượng tốt đẹp về một người con gái thùy mị, nết na, thông minh, sắc sảo có học thức.
Bên cạnh những vẻ đẹp trên thì Kiều Nguyệt Nga còn gây ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả, bởi tấm lòng ân nghĩa thủy chung. Dẫu rằng nàng có ý thức rất rõ về lễ giáo nam nữ hữu biệt và hoàn cảnh của mình, thế nhưng đứng trước ân nhân cứu mạng thì nàng vẫn sẵn sàng xuống xe để cảm tạ Lục Vân Tiên, phản ánh tấm lòng biết ơn sâu sắc của nàng. Ngay sau khi bị Vân Tiên ngăn cản không cho xuống xe, thì xuất phát từ tấm lòng áy náy của mình, Nguyệt Nga đã cất lời ca ngợi công lao của Lục Vân Tiên, trước hết là ơn cứu mạng, thứ hai lớn hơn và khiến nàng biết ơn hơn cả ấy là nhờ Vân Tiên mà nàng đã bảo toàn được danh tiết được ngụ ý trong câu “Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi”, từ đó nó đã trở thành một ân nghĩa không thể không báo đáp. Thế nên nàng đã cất lời mời Lục Vân Tiên về Hà Khê để cha mình đền ơn, cho thấy lối sống, ân nghĩa, thủy chung có trước có sau của Kiều Nguyệt Nga. Và đáng quý hơn cả chính là sự ý thức của nàng về việc không có bạc vàng nào có thể sánh được với công ơn của Lục Vân Tiên, từ đó cho thấy Nguyệt Nga là người coi trọng tình nghĩa, xem tình nghĩa là vô giá. Qua đoạn trích, có thể thấy rằng Kiều Nguyệt Nga chính là kết tinh cho vẻ đẹp của người phụ nữ truyền thống bởi nàng không chỉ gia giáo nết na, có học thức mà còn rất đằm thắm nghĩa tình.
Trích đoạn Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga là một đoạn trích hay, bộc lộ được vẻ đẹp lý tưởng của người quân tử theo quan niệm Nho học thông qua nhân vật Lục Vân Tiên, với sự toàn vẹn về văn võ, sự hiểu biết lễ nghi, đức tính khiêm nhường, cẩn thận, sử quả cảm và thân thủ phi thường. Bên cạnh đó ta còn thấy hiện lên hình ảnh Kiều Nguyệt Nga là kết tinh cho vẻ đẹp của người phụ nữ truyền thống, dịu dàng, nết na, ân tình thủy chung, thấu hiểu lễ nghĩa. Bộc lộ tấm lòng khao khát hành đạo cứu người của tác giả, hướng con người ta đến với chữ ‘thiện”, ước vọng con người đối xử với nhau bằng tình nghĩa, và niềm tin về chân lý cái thiện sẽ luôn luôn chiến thắng cái ác.
Phân tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga – Mẫu 2
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà văn, nhà thơ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam, thơ văn của ông không có sự chau chuốt, cầu kỳ về câu từ mà lại rất mộc mạc, dân dã gắn liền với đời sống của con người Nam Bộ. Vì vậy trong nền văn học của Việt Nam, đại thi hào Nguyễn Du nổi tiếng với kiệt tác truyện Kiều, đây là tác phẩm được đông đảo độc giả trong nước, cũng như độc giả nước ngoài đón nhận bởi câu từ mượt mà, văn phong khoa học, giàu giá trị nội dung cũng như tư tưởng thì văn chương của cụ Đồ Chiểu đã thâm nhập vào đời sống, trở thành một phần đời sống của người dân Nam Bộ, người ta đọc Truyện Lục Vân Tiên phẩm của ông quen thuộc như những bài đồng dao dân gian. Truyện Lục Vân Tiên nổi tiếng bởi chính chất mộc mạc, gần gũi ấy, trích đoạn “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” cũng đã thể hiện được phần nào đặc trưng thơ văn của tác phẩm này.
“Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” là một trích đoạn của tác phẩm “Truyện Lục Vân Tiên”, kể về hành động nhân nghĩa, vô tư của Lục Vân Tiên, khi chàng bắt gặp trên đường cảnh bạo tàn, chàng đã không hề né tránh hay e ngại những tai họa sẽ đến mà hết lòng ra tay cứu giúp người bị nạn. Đoạn trích thể hiện được nét đẹp trong phẩm chất cũng như tâm hồn của Lục Vân Tiên, chàng làm việc nghĩa xuất phát từ tấm lòng mà không hề tính toán đến việc thiệt hơn, báo đáp ân nghĩa. Ngoài ra, Kiều Nguyệt Nga cũng là một nhân vật được xây dựng khá đặc sắc, nàng là một tiểu thư khuê các, khi được cứu giúp bởi Lục Vân Tiên nàng đã thể hiện những phẩm chất tốt đẹp như trọng ân nghĩa, hiền thục đoan trang lại là một người con có hiếu.
Mở đầu đoạn trích, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã miêu tả một cách chân thực, sống động những hành động của Lục Vân Tiên, đó chính là khi chàng ra tay diệt trừ cái bạo tàn, không cho phép nó làm tổn hại, gây ra đau khổ cho những người dân lương thiện, đây là một hành động đẹp, là biểu hiện ra bên ngoài của một tấm lòng đáng quý, đáng trân trọng.
“Vân Tiên ghé lại bên đàng
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô
Kêu rằng: “Bớ đảng hung đồ”
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”
Câu thơ miêu tả những hành động của Lục Vân Tiên khi gặp một sự cố ở trên đường, đó là chứng kiến cảnh lũ cướp hoành hành, đang gây họa cho người dân, bản tính cương trực, căm ghét cái ác lại đề cao hành động nhân nghĩa đã thôi thúc Vân Tiên hành động, và hành động của chàng dường như cũng chỉ diễn ra trong một cái chớp mắt, chàng không hề suy nghĩ, tính toán thiệt mất nếu như mình can dự vào mà chàng lập tức ra tay diệt trừ mối nguy hại ấy, bảo vệ người dân. Và sự gấp rút của tình huống nên chàng không kịp chuẩn bị gì mà tiện tay bẻ luôn cành cây bên đường để làm vũ khí diệt trừ cái ác “Bẻ cây làm gậy nhằm đằng xông vô”. Không chỉ nhân nghĩa trong hành động mà lời nói của chàng cũng thể hiện được tính cách cương trực, thẳng thắn của chàng “Kêu rằng bớ đảng hung đồ/ Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”.
Lời nói của Lục Vân Tiên là hướng đến chỉ trích, phê phán lũ giặc cướp nhưng cũng là tuyên ngôn sống đầy cao đẹp của chàng, sống là phải hướng đến bảo vệ cuộc sống của những người dân lành, chứ không phải mang đến những đau khổ cho họ. Và những hành động bạo tàn, “hồ đồ” chàng càng không cho phép nó xâm hại đến những con người lương thiện ấy. Vân Tiên không chỉ là một con người có tình thương với con người, mang trong mình tinh thần chính nghĩa cao đẹp mà chàng còn là một chàng trai khỏe mạnh, tài giỏi, điều này được thể hiện ra trong những hành động chàng chống lại những tên cướp:
“Vân Tiên tả đột hữu xông
………….
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong”
Những động tác của Vân Tiên đều rất dứt khoát, nhanh nhẹn “tả đột hữu xung”, và những hành động anh hùng này được nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu so sánh với hình ảnh người anh hùng Triệu Tử khi phá vòng Đương Dang. Trước sức mạnh của Lục Vân Tiên thì băng cướp bị đánh tan “Lâu la bốn phía vỡ tan”, chúng hoảng loạn bỏ lại gươm giáo mà tìm đường thoát thân. Và cầm đầu của băng đảng này là Phong Lai thì bị Tiên cho một gậy “thác rày thân vong”. Đây là sự trừng phạt thích đáng cho những kẻ lấy việc hại người làm niềm vui, làm mục đích kiếm sống. Đối với những tên cướp ngày Lục Vân Tiên tuyệt đối không khoan nhượng,lời nói và hành động đều hết sức quyết liệt nhưng khi hỏi thăm người bị nạn thì chàng lại trở nên vô cùng dịu dàng, phải phép:
Dẹp rồi lũ kiến chòm ong
Hỏi: “Ai than khóc ở trong xe này”
Không chỉ ra tay cứu giúp người bị nạn mà chàng còn hết lòng quan tâm đến họ, thể hiện ngay qua lời hỏi thăm ân cần, và động viên, giúp người bị nạn trấn tĩnh lại tinh thần sau cơn hoảng loạn bằng việc thông báo cho họ biết tình hình bên ngoài, rằng những lũ “kiến chòm ong” đã bị tiêu diệt, cũng tức không còn bất cứ sự nguy hiểm nào có thể đe dọa nữa. Và phẩm chất tốt đẹp của Lục Vân Tiên cũng tiếp tục được bộc lộ khi chàng có cuộc đối thoại với người bị hại, cũng tức Kiều Nguyệt Nga. Khi Kiều Nguyệt Nga có ý định bước ra khỏi kiệu để cúi lạy Lục Vân Tiên vì công cứu mạng thì chàng nhất quyết không chịu nhận:
“Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái ta là phận trai”
Chỉ thông qua vài câu nói thôi nhưng ta có thể nhận thấy Lục Vân Tiên là một con người trọng đạo lí, cũng như những khuôn phép trong xã hội xưa. Chàng không muốn Kiều Nguyệt Nga ra ngoài cúi lạy mình vì không muốn sự gặp mặt này ảnh hưởng đến phẩm tiết của nàng, vì trong quan niệm của xã hội phong kiến xưa, thì “nam nữ thụ thụ bất thân”, tức là giữa con trai và con gái cần phải có những khoảng cách nhất định, không được tùy tiện gặp mặt hay có những hành động thân thiết. Lời nói của Lục Vân Tiên cũng thể hiện chàng là một con người có học thức, còn đặt lời nói ấy trong xã hội ngày nay thì ta lại thấy có cái gì đấy đáng yêu ở chàng trai này. Nhưng mục đích của Lục Vân Tiên không chỉ vì lễ tiết mà chàng cũng không muốn nhận sự báo đáp của Kiều Nguyệt Nga, bởi hành động cứu giúp của chàng là xuất phát từ tấm lòng chứ không phải vì mục đích vụ lợi gì “Làm ơn há dễ trông người trả ơn”, câu nói của chàng với Kiều Nguyệt Nga càng làm cho con người chàng trở nên đáng trân trọng hơn.
“Nhớ câu kiến nghĩa bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”
Trong quan niệm của Lục Vân Tiên thì những việc nhân nghĩa là tất yếu, và nếu làm ơn mà trông ngóng việc trả ơn thì không phải người anh hùng “Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”.
Như vậy, đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga đã khắc họa một cách chân thực, sống động hình ảnh của người anh hùng hiệp nghĩa Lục Vân Tiên, ở chàng hiện lên với biết bao phẩm chất tốt đẹp, không chỉ là con người nhân nghĩa, thấy việc ác là ra tay diệt trừ, bảo vệ sự bình yên cho con người mà chàng còn là một con người có học thức, trọng những lễ nghi, khuôn phép. Và ở chàng trai ấy ta cũng có thể thấy được một quan niệm sống thật đẹp, đó là quan niệm về việc nghĩa và về người anh hùng. Khắc họa nhân vật Lục Vân Tiên cũng là cách nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu hình mẫu anh hùng lí tưởng và khát vọng về lẽ công bằng ở đời.
Phân tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga – Mẫu 3
Mở đầu Truyện Lục Vân Tiên, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu viết:
Hỡi ai lẳng lặng mà nghe,
Dữ răn việc trước, lành dè thân san.
Trai thời trung hiếu làm đầu,
Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình…
Lời thơ giản dị, rành rẽ như một tuyên ngôn, định hướng cho bước đi của toàn bộ tác phẩm. Với nhà thơ xứ dừa ấy, sáng tác văn chương không phải vì sự nghiệp văn chương mà trước hết, quan trọng hơn hết là vì mục đích giáo dục, truyền bá đạo lý, nhân cách con người.
Truyện thơ Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu được nhân dân ta – nhất là bà con ở Nam Bộ – yêu thích không phải vì có nhiều câu hay, lời đẹp, nghệ thuật tinh tế mà vì những chi tiết, sự việc, những nhân vật tỏa sáng đạo lí, vì những ý tưởng giáo huấn chân thành, thấm thía. Nội dung đạo lý bao trùm toàn thiên truyện là nhân nghĩa, là trung hiếu, tiết hạnh. Song đấy không phải những từ ngữ khô khan trói trong khuôn khổ phong kiến cổ hủ, nặng nề.
Với Nguyễn Đình Chiểu, nhân nghĩa là đạo đức của nhân dân, là căn cốt, gốc rễ để trau dồi, rèn giũa con người. Vì vậy, vào đầu tác phẩm – ở đoạn Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga – nhà thơ đã hào hứng giới thiệu hai con người trẻ tuổi, biết hướng theo lòng nhân, biết hành động theo việc nghĩa.
Đó là Lục Vân Tiên – chàng trai tài ba dũng cảm, sẵn sàng làm việc “nghĩa”. Vân Tiên vốn con nhà thường dân nhưng học giỏi, văn võ kiêm toàn. Chàng đang háo hức trên con đường lên kinh ứng thi. Vậy mà gặp cướp. Không phải chúng gây sự với chàng, mà chúng đang quấy nhiễu nhân dân.
Trước mắt chàng, bày ra một nghịch cảnh: dân thì “than khóc tưng bừng – Đều đem nhau chạy vào rừng lên non” ; bọn cướp thì “xuống thôn hương – Thấy con gái tốt qua đường bắt đi”. Thế là, sau một lời hứa ngắn gọn: “Tôi xin ra sức anh hào…”, Lục Vân Tiên nhanh nhẹn “Ghé lại bên đàng, bẻ cây làm gậy”, xông thẳng vào giữa bọn cướp.Bọn cướp đông đặc. Tên tướng cướp “Mặt đỏ phừng phừng”, dữ tợn như một con ác thú.
Chúng “Truyền quân bốn phía bủa vây bịt bùng”. Lực lượng thật quá chênh lệch. Bèn kia là cả lũ lâu la đông như ong, như kiến. Bên này chỉ độc nhất một mình chàng trai dũng cảm với lời hứa chân thành “Cứu người ra khỏi lao đao buổi này”, với vũ khí giản dị “cây gậy bên đàng”. Vậy mà, chàng không chút nao núng:
Vân Tiên tả đột hữu xông,
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Giang.
Nhà thơ không tả tỉ mỉ trận giao chiến mà chỉ kể ngắn gọn bằng mấy dòng thơ, một đấu so sánh và dăm ba từ đặc sắc: “tả đột, hữu xông – Khác nào Triệu Tử…” đúng là một dũng tướng tài ba, đánh nhanh, kín võ, sánh ngang với Triệu Tử Long thời Tam quốc trong trận phá vây quân Tào Tháo ở Đường Đan Trường Bản. Ngày xưa Triệu Tử Long chiến đấu vì ngôi vua nhà Hán, vì bảo vệ ấu chúa A Đẩu, dù sao vẫn là nghĩa vụ của một bầy tôi trung thành.
Còn ngày nay, Lục Vân Tiên chiến đấu vì người dân gặp nạn, cứu dân, trừ ác, vì việc nghĩa… hành động đó thật giản dị, vô tư trong sáng và cao đẹp biết bao. Cuộc chiến đấu của chàng y như trận đánh của Thạch Sanh„ diệt đại bàng cứu nàng công chúa. Sức mạnh của Lục Vân Tiên là sức mạnh của nhân dân, của điều thiện.
Lâu la bốn phía vỡ tan,
Đêu quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay.
Phong Lai trở chẳng kịp tay,
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.
Lời thơ chân chất, có chỗ còn thô mộc, song hồn thơ chan chứa dạt dào. Đọc Lục Vân Tiên, chúng ta thường gặp nhiều câu chữ chân mộc như thế. Thơ chân mộc nhưng cảm hứng tác giả vẫn bay bổng, mộng mơ. Ngỡ như người thi sĩ mù ấy vừa kể chuyện vừa rung đùi thích thú, gửi tới bạn đọc một lẽ phải nhãn tiền: Người có lòng nhân, biết làm việc nghĩa thì sẽ thắng. Kẻ độc ác, bất nhân sẽ thảm bại như thế đấy. Xuất phát từ lòng nhân, Lục Vân Tiên đã làm được một việc “nghĩa”, một việc xứng đáng được gọi là anh hùng.
Tự nguyện dấn thân vào vòng nguy hiểm, chiến đấu hết mình, thắng lợi rực rỡ,… tất cả đều vì nhân nghĩa, nên sau thắng lợi, Lục Vân Tiên không một chút kiêu ngạo. Trái lại, chàng thật khiêm nhường, chính trực. Nghe cô hầu Kim Liên than thở nhưng vẫn còn hoảng sợ, Vân Tiên động lòng thương, an ủi: “Ta đã trừ dòng lâu la”.
Rồi ôn tồn, chàng thăm hỏi ngọn ngành từ tên họ, gia cảnh đến quê hương, nguyên cớ gặp nạn của hai cô gái. Trong lời chàng, có ý còn lạc hậu, ảnh hưởng quan niệm phong kiến “Nam nữ thụ thụ bất thân”, song tất cả đều chân thành, duns dị, rất đáng mến. Đáng mến, đáng phục hơn nữa là sau khi nghe cô tiểu thư Kiều Nguyệt Nga (nạn nhân được chàng cứu giúp) kể lể, thở than, ca ngợi và tha thiết muốn đền ơn, thì: Vân Tiên nghe nói liền cười
“Cái cười đáng yêu, đáng kính sao ! Một là cái cười của anh hùng quân tử, hai là cái cười của anh con trai, ba là cái cười của quần chúng rộng lượng, đều nở trên môi Vân Tiên” (Xuân Diệu – Đọc lại thơ văn Nguyễn Đình Chiểu). Sau nụ cười đáng yêu ấy là lời nói, cũng rất đáng yêu:
Làm ơn há dễ trông người trả ơn.
Nay đà rõ đặng nguồn cơn,
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì.
Đúng là giọng nói, cách nói của chàng trai Nam Bộ – nôm na, giản dị. Nó cất lên từ một cõi lòng chất phác. Chất phác, là cái bên ngoài là cái vỏ xù xì, thô nháp. Nhưng phía trong, phần ruột thì cao đẹp, thắm đỏ, ngọt ngào thơm thảo một quan niệm nhân sinh rất hào hiệp, vô tư của một lớp người, một thế hệ con người. Chúng ta hiểu lời của Lục Vân Tiên như thế nào?. Trước hết, chàng khẳng định việc mình làm là hoàn toàn tự nguyện.
Gọi là ơn cũng được. Hay nên xem đó là việc “nghĩa” ? Làm việc “nghĩa” thì không nên đợi trả ơn, tính hơn thiệt,… vì “ơn nghĩa” là lẽ thông thường của người sống có văn hoá, đang theo đòi kinh sử, người hướng về nghĩa khí, lấy nghĩa lớn, lấy chữ nhân, lòng nhân làm động cơ, làm mục đích cho mọi hành động.
Chàng đã hành động vì nghĩa lớn trừ kẻ ác, bảo vệ người lương thiện. Chàng chỉ mong Nguyệt Nga cũng như mọi người “rõ đặng nguồn cơn” – nghĩa là hiểu rõ, cảm thông với hành động của chàng. Sau nữa, chàng nhắc tới sử sách, nhắc lời các bậc hiền nhân xưa. Người xưa nói: “Kiến ngãi bất vi vô cùng dã”. Nghĩa là “Thấy việc nghĩa mà không làm, không phải người dũng cảm”.
Cách nói của chàng giản dị hơn: “Nhớ câu kiến ngãi bất vi – Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”. “Phi anh hùng” là những kẻ tiểu nhân, hèn nhát. Lời của Vân Tiên chắc nịch, vừa để đối chứng, phê phán những kẻ tầm thường, vừa khẳng định việc làm là đúng đắn, là tất yếu, hiển nhiên, thuộc căn cốt, gốc rễ trong lẽ sống của minh.
Đó cũng là lẽ sống của biết bao hiền nhân, quân tử ngày xưa, và bao con người chân chính ngày nay. Lời chàng, nhân cách của chàng, gợi nhớ Từ Hải, nhân cách Từ Hải trong Truyện Kiều: “Anh hùng tiếng đã gọi rằng – Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha”. Thế đấy, Lục Vân Tiên thật dũng cảm, trọng nghĩa, khinh tài, tiêu biểu cho những chàng trai Nam Bộ.
Còn Kiều Nguyệt Nga là một cô gái hiền hậu, nết na biết trọng nghĩa tình. Sau khi được cứu thoát khỏi tay bọn bất nhân, độc ác, nàng vô cùng xúc động. Nàng đã nói những lời đẹp nhất để cảm ơn ân nhân:Lâm nguy chẳng gặp giải nguy,
Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi.
Trước xe quân tử tạm ngồi,
Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa.
Nói “Tiết trăm năm” là nói việc hộ trọng của cả một đời người. “Lạy rồi sẽ thưa” cũng là một thái độ kính nể, thiêng liêng trong quan hệ của con người. Một cô tiểu thư vốn quen được yêu chiều, quen được bảo vệ, chở che mà xử sự như thế, hạ mình như thế, đâu phải chuyện dễ dàng. Nguyệt Nga là tiểu thư – con quan tri phủ – nàng được giáo dục chu đáo, nàng gắn bó với những người dân, nên tiếp nhận được đạo đức của nhân dân.
Đạo đức ấy là chữ “ân”, chữ “nghĩa”. Do đó, sau những phút giao đãi mở đầu, nàng thẳng thắn bày tỏ ý nguyện đền đáp công lao cứu mạng của Lục Vân Tiên. Thái độ và lời nói của nàng có cái gì lúng túng, ngượng ngập, nhưng chất phác, “nghe thánh thót bên tai giọng nói của cô gái miền Nam” (Xuân Diệu):
Gặp đây đương lúc giữa đàng,
Của tiền chẳng có, bạc vàng cũng không.
Gẫm câu báo đức thù công,
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi.
Nguyệt Nga nói tới “của tiền”, “vàng bạc” để giãi bày sự thiếu hụt về vật chất. Lại nói tới “báo đức thù công” – đền đáp ơn đức, công lao. Rồi than thở “Lấy chi cho phí tấm lòng…” để giãi bày sự lúng túng vé tinh thần, những xúc động có thật của một tâm hồn trong trắng. Sau đó Nguyệt Nga cố mời Vân Tiên về nhà mình để tạ ơn. Nhưng chàng từ chối. Nàng băn khoăn, day dứt khôn nguôi.
Chỉ đến khi thấy “Vân Tiên nghe nói liền cười…” và an ủi: “Nhớ câu kiến ngãi bất vi – Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”, Nguyệt Nga mới khuây khoả hỏi thăm gia cảnh tuổi tên của vị ân nhân. Vậy đấy, ngay phút gặp gỡ ban đầu với Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga đã tỏ rõ một tâm hồn trung hậu, nết na. Tâm hồn ấy bắt nguồn từ đâu, nếu không phải từ đạo lí nhân nghĩa của nhân dân ta, nhất là nhân dân Nam Bộ cùng quê hương với Nguyễn Đình Chiểu. Nhiều nhà nghiên cứu văn học cho rằng: Lục Vân Tiên là Truyện Kiều của nhân dân Nam Bộ.
Vân Tiên, Vân Tiên, Vân Tiên,
Cho tôi một tiền, tôi kể chuyện thơ…
Những nghệ sĩ hát rong vùng đồng bằng sông Cửu Long, thường giáo đầu bài hát Lục Vân Tiên bằng câu ca như thế. Ngay sau đó, buổi diễn xướng dân gian được đông đảo bà con hưởng ứng, quây tròn quanh người kể chuyện. Người diễn, người nghe giao hoà, say đắm hàng giờ, hàng buổi. Một trong những đoạn truyện được mọi người yêu thích là đoạn Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Ngư.
Yêu thích không phải vì văn chương chải chuốt, nghĩa lý thâm trầm như Truyện Kiều, mà trước hết vì: đoạn trích thể hiện khát vọng hành đạo giúp đời của Nguyễn Đình Chiểu và khắc họa phẩm chất đẹp đẽ của hai người trẻ tuổi – Lục Vân Tiên tài ba dũng cảm, trọng nghĩa khinh tài ; Kiều Nguyệt Nga nết na, nhân hậu, ân tình.
Tất cả những vẻ đẹp ấy của đoạn thơ phù hợp với phong cách sống, với ước mơ, khát vọng giản dị mà trong sáng của nhân dân ta, mãi mãi dạy chúng ta bài học đạo đức thiết thực và cao cả biết bao.
Phân tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga – Mẫu 4
Trong tác phẩm Lục vân Tiên, tác giả Nguyễn Đình Chiểu đã dựng lên hình tượng một con người lý tưởng với những vẻ đẹp toàn diện, mà nổi bật lên trong những vẻ đẹp đó chính là tính chính nghĩa cao đẹp. Trong đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga, tác giả Nguyễn Đình Chiểu đã tái hiện lại phẩm chất tốt đẹp đó qua hành động trừ bạo cho dân.
Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga nằm trong phần mở đầu của tác phẩm. Nghe tin triều đình mở khoa thi, Vân Tiên giã từ thầy xuống núi đua tài. Trên đường về nhà thăm cha mẹ, Vân Tiên đã gặp bọn cướp Phong Lai đang hoành hành, bóc lột của dân lành. Một mình chàng đã đánh tan bọn cướp, cứu được Kiều Nguyệt Nga.
“Vân Tiên tả đột hữu xông
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Giang
Lâu la bốn phía vỡ tan”
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay”Trên đường về quê,Lục Vân Tiên đã bắt gặp cảnh chướng tai gai mắt, đó chính là sự hoành hành đầy ngang ngược của bọn cướp Phong Lai. Không tính toán thiệt hơn, được mất,Lục Vân Tiên đã bẻ cây bên đường làm gậy xông vào lũ cướp để giải cứu người dân lương thiện vô tội. Không chỉ hành động mà lời nói của chàng cũng thể hiện được con người đầy chính nghĩa của chàng “Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”, đó là lời cảnh cáo nhưng cũng là tuyên ngôn sống của chàng,người chân chính là phải bảo vệ nhân dân chứ không phải mang lại đau khổ cho họ.
“Phong Lai mặt đỏ phừng phừng
Thằng nào dám tới lẫy lừng vào đây
Trước gây việc dữ tại mầy
Truyền quân bốn phía phủ vây bịt bùng”
Đang cướp bóc thì có người phá hỏng “chuyện tốt” của mình, Phong Lai đã vô cùng giận dữ, khuôn mặt của hắn “đỏ phừng phừng” cho thấy đây là con người bạo tàn, gian ác. Trước hành động chính nghĩa của Vân Tiên thì Phong Lai đã vô cùng coi thường mà buông lời thách thức đầy giễu cợt “Thằng nào dám đến lẫy lừng vào đây” và còn nói trước kết cục bi thảm của Tiên khi dám phá hỏng một vụ kiến trác béo bở của chúng “Trước gây việc dữ tại mày”, sau đó hôn quân kéo bầy bủa vây, tấn công Vân Tiên.
“Vân Tiên tả đột hữu xông
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Giang
Lâu la bốn phía vỡ tan
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay”
Trước sự tấn công của bọn Phong Lai, Lục Vân Tiên đã không hề nao núng mà tả đột hữu xung, với các miêu tả này ta vừa có thể hình dung ra những hành động nhanh chóng, chính xác, vừa thể hiện được bản lĩnh hơn người của Vân Tiên. Và trong cái nhìn của NGuyễn Đình Chiểu thì hành động anh hùng này giống như hình tượng đầy oan phong của Triệu Tử khi phá vòng Đương Dang, lập được công trạng lớn. Bọn cướp Phong Lai chẳng mấy chốc bị đánh cho tan tành, sợ hãi mà tháo chạy, Phong Lai bị Vân Tiên trừng trị thẳng tay “thác rày thân vong”
“Dẹp rồi lũ kiến chòm ong
Hỏi ai than khóc ở trong xe này
Thưa rằng: Tôi thiệt người ngay
Sa cơ nên mới lầm tay hung đồ”
Sau khi đánh tan lũ cướp, Lục Vân Tiên quan tâm đến hỏi thăm người bị hại, nghe tiếng khóc sợ hãi từ trong kiệu, Vân Tiên đã cất tiếng thăm hỏi “ai than khóc ở trong xe này” thì trong xe vọng ra tiếng đáp của một người con gái, nàng đã kể lại hết sự tình cho Vân Tiên nghe, nàng là một người dân thiện lương, vì sa cơ nên mới lọt vào tay của bọn hung đồ “sa cơ nên mới lầm tay hung đồ”. Nàng còn bày tỏ mong muốn gặp mặt,cúi đầu bày tỏ sự biết ơn trước sự hành động ra tay nghĩa hiệp của Lục Vân Tiên:
“Trong xe chật hẹp khôn phô
Cúi đầu trăm lạy cứu cô tôi cùng”
Tuy nhiên, quan điểm sống của Lục Vân Tiên là “làm ơn há dễ trông người trả ơn” đã từ chối lời yêu cầu của Kiều Nguyệt Nga, và một lí do nữa được chàng đưa ra đó chính là sự khác biệt về thân phận, giới tính. Trong quan niệm phong kiến xưa thì “nam nữ thụ thụ bất thân”, vì vậy nên Lục Vân Tiên không muốn cuộc gặp gỡ này ảnh hưởng đến tiết hạnh của Nguyệt Nga. Qua đây ta thấy được Vân Tiên là một con người sống chuẩn mực đối với những lễ nghĩa của phong kiến và là người biết quan tâm đến người khác:
“Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái ta là phận trai”
Đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga là đoạn trích hay, hấp dẫn đối với người đọc bởi sự chính nghĩa, ngay thẳng, kiên cường của Lục Vân Tiên, qua cuộc trò chuyện với Kiều Nguyệt Nga ta còn thấy đây là con người có nhiều phẩm chất đáng quý, đáng trân trọng.
Phân tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga – Mẫu 5
Từ biệt tôn sư về đi thi, giữa đường bất chợt gặp cảnh lũ cướp hoành hành, Lục Vân Tiên vụt dũng mãnh như chàng Thạch Sanh trong truyện cổ tích. Nhân vật ấy đọng mãi trong lòng người đọc là hình ảnh xả thân cứu Kiều Nguyệt Nga:
Vân Tiên ghé lại bên đàng,
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô.
Kêu rằng: “Bớ đảng hung đồ,
Chớ quen cái thói hồ đồ hại dân”…
Có cảm giác là sự việc diễn ra quá bất ngờ, nhanh chóng. Bất ngờ cũng phải thôi, vì Vân Tiên “giữa đường gặp cảnh bất bình”, hoàn toàn ngẫu nhiên. Không kịp suy nghĩ, không kịp đắn đo, chàng bất chấp hiểm nguy, ra tay cứu giúp. Chàng là ai? Người được che chở không hề biết; chỉ biết chàng đang quyết liệt sống mái với lũ cướp đường. Quả thật, theo mạch truyện, chính Vân Tiên đã bị cuốn vào trận đấu một cách không chủ động. Chàng có thể tránh xa nếu là người hèn nhát, có thể dửng dưng nếu là một kẻ ích kỷ…Vân Tiên đã không bàng quan, không để ngoài tai, ngoài mắt những điều trông thấy. Và sự bất ngờ “vào cuộc” của chàng tạo nên thế tự chủ vững vàng trong cái ngẫu nhiên ấy. Giá như Vân Tiên biết rằng người bị cướp tấn công là nàng Kiều Nguyệt Nga xinh đẹp, hiền thục; giá như chàng kịp dừng lại để suy nghĩ một chút thiệt hơn thì đoạn thơ sẽ mất đi cái hấp dẫn của tư thế chủ động “tả đột hữu xông; khác nào Triệu Tử mở vòng…” mạnh mẽ ấy. Ta gặp một chàng trai Nam Bộ thực sự cương trực và… hơi liều lĩnh nữa; thấy cảnh bọn cướp “làm thói hồ đồ hại dân” là xông vào đánh hết mình, đánh bằng lòng căm hờn của một đấng nam nhi quả cảm, bằng tài võ nghệ điêu luyện. Hình ảnh Vân Tiên ngang tàng xông pha giữa đám đầu trâu mặt ngựa như biểu hiện của chính nghĩa đang trừng trị cái ác, cái xấu. Nhân nghĩa và can trường biết bao!
Không hiện lên trước mắt người đọc như một Từ Hải “vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”, cũng không “vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa” như Kim Trọng trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, nhưng qua lời nói, việc làm của Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu đã tạo được ấn tượng đậm nét về chàng. Làm ơn mà không màng được trả ơn là cách sống của người quân tử xưa nay; nhưng thái độ của Lục Vân Tiên trước tình cảnh và sự hàm ơn của Nguyệt Nga lại có những nét riêng rất đáng yêu. Mạnh mẽ, xông xáo trong cuộc chiến với lũ cướp bao nhiêu, chàng lại nhút nhát và e dè trước người con gái nhờ mình mà thoát nạn bấy nhiêu. Khi Nguyệt Nga định bước ra tạ ơn, Vân Tiên ngượng ngùng:
Khoan khoan ngồi đó chớ ra,
Nàng là phận gái, ta là phận trai…
Dẫu chưa nguôi sợ hãi, chắc rằng Nguyệt Nga khó mà giấu được nụ cười kín đáo trước chàng trai nhát gái này. Có lẽ người ta sẽ không buột miệng nói như thế nếu là một kẻ thạo đời, lọc lõi trong tiếp xúc với phụ nữ. Liệu hình ảnh Lục Vân Tiên có đẹp một cách trọn vẹn nếu như chàng tỏ ra vồ vập đối với Nguyệt Nga? Thì ra tâm hồn, bản chất chàng trai họ Lục thật trong sáng, tươi trẻ. Càng đáng quý hơn nữa khi cái chất trong trẻo, hiền lành ấy ẩn chứa sau một tính cách khí khái, dũng cảm. Sự cứng rắn của thép, nét non nớt, thư sinh của chàng trai vừa bước vào đời hài hòa trong con người Vân Tiên. Không chỉ qua hành động, cách giao tiếp mà cách ứng xử cũng bộc lộ rõ phẩm cách của chàng. Dám liều mình cứu người, lời lẽ đanh thép khi giao chiến với giặc cướp, để rồi trước một cô gái dịu dàng, Vân Tiên không tránh khỏi ngại ngùng bẽn lẽn – điều đó tự nhiên đã biểu lộ một lối sống lành mạnh, có giáo dục, nề nếp. Lời nói, thái độ khiêm nhường, nhã nhặn: “Làm ơn há dễ trông người trả ơn”, “Nhớ câu kiến ngãi bất vi, Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”… vừa cho ta cảm cái tâm nhân ái, vừa khâm phục trước quan niệm sống trọng nghĩa của Vân Tiên.
Cái nhìn, cách nghĩ của nhà văn bao giờ cũng lộ rõ trong tác phẩm, trong cách thể hiện hình tượng, chi tiết… Có ý kiến cho rằng, cuộc đời Lục Vân Tiên là hình bóng cuộc đời nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Chỉ qua vài chi tiết nhỏ – Vân Tiên “bẻ cây làm gậy” có thể thấy được cảm quan hiện thực của nhà thơ. Không rút gươm, rút kiếm một cách oai phong như các binh tướng hay văn nhân quý tộc cao đạo, hành động của chàng chỉ mang tính dân dã, bộc trực. Bất kỳ một người con trai bình dân nào cũng có thể bẻ cây làm gậy để làm việc nghĩa, không cầu kì, chẳng nề hà. Thực chất ở đây, Vân Tiên vẫn là một chàng trai có học, sống giữa những người lao động, chưa phải là một quan chức của nhà nước phong kiến như ở đoạn sau. Ghi một cử chỉ ấy thôi, người đọc đã thấy rõ sự gắn bó mật thiết giữa tâm hồn, tình cảm của nhà thơ với cuộc sống nhân dân, hồn hậu như hạt lúa, củ khoai. Việc làm và cách nghĩ của Lục Vân Tiên như minh chứng cho quan niệm của Nguyễn Đình Chiểu về lẽ sống ở đời:
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà
Vẫn là những vần thơ mang đậm phong cách dân gian quen thuộc nhưng được tác giả gọt giũa và nâng cao, tạo được sự hấp dẫn, thích thú đối với người đọc, nhất là trong những lời đối thoại giữa Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga. Lời thơ trau chuốt, không còn là thứ ngôn ngữ mộc mạc thường ngày:
Chút tôi liễu yếu đào thơ,
Giữa đường gặp phải bụi dơ đã phần.
Hà Khê qua đó cũng gần,
Xin theo cùng thiếp đền ân cho chàng…
Đây đúng là lời lẽ của một tiểu thư con nhà khuê các, có giáo dục. Và điều đó cùng chứng tỏ nhà thơ đã rất dụng công khi dùng câu chữ và có dụng ý khi thể hiện nhân vật.
Lấp lánh sau những câu thơ giản dị, hồn hậu là nét đẹp của phẩm cách, tấm lòng đáng quý, đáng phục của Vân Tiên, Nguyệt Nga… Đoạn thơ ngời sáng như chính cái tâm nhân ái của cụ Đồ Chiểu.
Phân tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga – Mẫu 6
Truyện Lục Vân Tiên là một trong những tác phẩm đặc sắc nhất của Nguyễn Đình Chiểu, truyện nói về nhân vật Lục Vân Tiên – người anh hùng trượng nghĩa, văn võ song toàn và phẩm chất tốt đẹp. Trong đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” đã thể hiện được rõ con người và nhân cách của Lục Vân Tiên.
Trên đường đi thi, Vân Tiên bất chợt gặp cảnh lũ cướp hoàng hành, không kịp suy nghĩ, hay đắn đo, chàng bất chấp hiểm nguy mà ra tay cứu giúp:
“Vân Tiên ghé lại bên đàng…
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”
Trong hoàn cảnh gấp rút cứu người ấy chàng không kịp chuẩn bị gì mà chỉ tiện tay bẻ cành cây bên đường làm vũ khí chiến đấu với bọn cướp. Chàng không chỉ nhân nghĩa trong hành động mà còn thể hiện trong lời nói. Chàng chỉ trích và phê phán lũ giặc cướp nhưng cũng chính là lời tuyên bố về quan điểm sống đầy cao đẹp của chàng. Sống là phải hướng đến bảo vệ cho người dân lành, chứ không phải mang đến những đau khổ, đày đọa cuộc sống của họ. không cho phép những hành động “hồ đồ” xâm hại tới những con người lương thiện. Đoạn thơ đã cho thấy Vân Tiên không chỉ có tình thương với con người mà còn có tinh thần trách nhiệm cao cả. Điều này đã được thể hiện trong cảnh chàng chống lại với lũ cướp:
“Vân Tiên tả đột hữu xông…
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong”
Hành động nhanh, mạnh, dứt khoát của Vân Tiên được tác giả ví với người anh hùng Triệu Tử khi phá vòng đương Dang. Trước sức mạnh và tài nghệ của Vân Tiên, bọn cướp đã bị đánh tan tác, hoảng loạn bỏ chạy, đó là sự trừng phạt thích đáng cho những kẻ hại người. Sau khi đã dẹp tan bọn cướp, chàng Vân Tiên liền tới gần hỏi thăm người bị nạn:
“Dẹp rồi lũ kiến chòm ong
Hỏi: Ai than khóc ở trong xe này”
Vân Tiên không chỉ cứu giúp mà còn hết lòng quan tâm đến người gặp nạn. Chàng hỏi thăm ân cần, động viên và giúp người bị nạn trấn tĩnh tinh thần. Khi trò chuyện với người bị nạn là Kiều Nguyệt Nga, Lục Vân Tiên đã biết là nữ nhi nên đã nhanh miệng:
“Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái ta là phận trai”
Câu nói ấy đã thể hiện Lục Vân Tiên là một người rất coi trọng đạo lý và khuôn phép xã hội. Không muốn sự gặp mặt sẽ ảnh hưởng đến phẩm tiết của nàng vì “nam nữ thụ thụ bất thân”. Có thể thấy Lục Vân Tiên không chỉ là một người có học thức, hơn thế chàng còn là một người hào hiệp, trượng nghĩa. Chàng không muốn nhận sự cúi lạy của Kiều Nguyệt Nga cũng như sự báo đáp của nàng, bởi hành động của chàng xuất phát từ tấm lòng chứ không vì mục đích được đền đáp. “Làm ơn há dễ trông người trả ơn”, câu nói của chàng với Kiều Nguyệt Nga đã khiến cho người đời rất đáng trân trọng và noi theo:
“Nhớ câu kiến nghĩa bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”
Đối với Vân Tiên, chàng coi việc nhân nghĩa trên đời là điều tất yếu, nếu làm ơn mà vì được đến đáp, trông ngóng đến việc trả ơn thì đó không còn là người anh hùng.
Đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” đã khắc họa một cách rõ nét, chân thực và đầy sống động về người anh hùng trượng nghĩa Lục Vân Tiên, đó là một hình mẫu anh hùng lí tưởng và khát vọng về lẽ công bằng ở đời.
Phân tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga – Mẫu 7
Nguyễn Đình Chiểu sinh thời vào lúc loạn lạc, dù sớm đỗ đạt nhưng đến năm 26 tuổi đã bị mù, ông trở về làm thầy thuốc, làm một nhà thơ. Bằng tài năng và đức độ hơn người, Nguyễn Đình Chiểu đã khiến biết bao người ngưỡng mộ. Các bài văn thơ của ông dùng để khích lệ tinh thần chiến đấu và mang tính giáo huấn cao. Lục Vân Tiên là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất trong đời thơ của ông.
Lục Vân Tiên được sáng tác vào những năm 50 của thế kỉ XIX, thể hiện khát vọng hành đạo giúp đời của tác giả và khắc họa hình ảnh đẹp đẽ của hai nhân vật: Lục Vân Tiên tài ba, dũng cảm, trọng nghĩa khinh tài; Kiều Nguyệt Nga hiền hậu, ân tình. Nội dung chính của tác phẩm này là khi Lục Vân Tiên nghe tin triều đình mở khoa thi, chàng đã vội từ biệt thầy đi đua tài. Trên đường về, vô tình gặp cảnh Kiều Nguyệt Nga bị cướp chàng đã ra tay trượng nghĩa cứu giúp người bị nạn. Đoạn trích đã làm nổi bật vẻ đẹp phẩm chất của hai nhân vật chính là Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga.
Hình tượng Lục Vân Tiên được xây dựng theo mô típ quen thuộc của truyện dân gian, trượng nghĩa, anh tài, ra tay cứu giúp người bị nạn. Đây là nhân vật lý tưởng của văn học trung đại, thể hiện những khao khát mơ ước của nhân dân ta. Chàng mang lí tưởng lớn, lập thân lập danh giúp đời. Và trên đường về gặp chuyện bất bình, Lục Vân Tiên không hề ngần ngại mà ngay lập tức ra tay trượng nghĩa:
Vân Tiên ghé lại bên đàng,
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô
Dù chỉ có một mình, trên tay chỉ có cây gậy nhưng Vân Tiên dám đương đầu với lũ cướp vừa đông vừa rất hung hãn. Hành động đó cho thấy tính cách anh hùng, tài năng và tấm lòng vị nghĩa của Vân Tiên. Trước sự dọa nạt của những tên cướp, Vân Tiên không hề nao núng: “Vân Tiên tả đột hữu xông/ Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang” . Hình ảnh chàng trong trận chiến hiện lên thật đẹp đẽ, như một dũng tướng phá tan kẻ thù. Hành động đó cũng cho thấy bản chất, tấm lòng cao thượng của chàng,vì nghĩa quên mình, một vẻ đẹp tiêu biểu của những người anh hùng.
Không chỉ là một người có tinh thần trượng nghĩa, mà chàng còn là người hết sức khuôn phép, lịch sự với người khác giới. Sau khi đuổi hết lũ lâu la, Vân Tiên còn tiến lại hỏi han, an ủi những người bị nạn. Không chỉ vậy, khi nghe nói họ muốn được lạy tạ ơn, Vân Tiên vội gạt ngay đi:
Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái ta là phận trai
Theo lễ giáo phong kiến giữa nam và nữ luôn phải giữ khoảng cách, “nam nữ thụ thụ bất thân”, câu nói của Lục Vân Tiên tuy có phần nặng nề lễ giáo phong kiến nhưng cho thấy chàng là người cư xử hết sức đúng mực. Đồng thời nó cũng xuất phát từ chính đức tính khiêm nhường của Vân Tiên “Làm ơn há dễ trông người trả ơn” . Việc mà chàng làm như là một việc đương nhiên, mà bất cứ ai thấy cũng sẽ hành động như vậy, bởi vậy, Vân Tiên không muốn nhận cái lạy tạ của người con gái và từ chối lời đề nghị về nhà của Kiều Nguyệt Nga.
Dường như với Lục Vân Tiên, làm việc nghĩa là một bổn phận, một lẽ tự nhiên, con người trọng nghĩa khinh tài ấy không coi đó là công trạng. Đó là cách cư xử mang tinh thần nghĩa hiệp của các bậc anh hùng hảo hán. Bởi chàng quan niệm:
Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng
Vân Tiên là mẫu anh hùng lí tưởng, mà qua nhân vật này nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã gửi gắm nhiều niềm tin, mơ ước, khát vọng của mình.
Bên cạnh nhân vật Lục Vân Tiên ta còn thấy một nàng Kiều Nguyệt Nga hết sức chừng mực, nết na, hiếu thảo. Nàng xưng hô rất khiêm nhường “tiện thiếp”, cùng với đó là cách nói năng hết sức nhẹ nhàng, khuôn phép: “Làm con đâu dám cãi cha/ Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành” . Lời nói của nàng hết rõ ràng, mạch lạc, vừa đẩy đủ thông tin vừa thể hiện niềm biết ơn chân thành với ân nhân đã giúp đỡ.
Đồng thời nàng cũng là con người biết cách ứng xử, có trước có sau. Việc Vân tiên cứu nàng đâu chỉ là cứu mạng sống, mà còn cứu cả một đời trinh bạch của người con gái, bởi vậy, nàng càng biết ơn Vân Tiên hơn. Cũng bởi thế nàng áy náy không biết lấy gì đền đáp công ơn to lớn đó:
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi
Và cuối cùng nàng đã quyết lấy thân mình, tự nguyện gắn bó cả đời với chàng trai hiệp nghĩa đó. Hàng ngày nâng khăn sửa túi để báo đáp ơn lớn của Vân Tiên đối với nàng. Những nét đẹp trong phẩm chất, trong hành xử của Kiều Nguyệt Nga đã chinh phục được tình cảm yêu mến của nhân dân.
Đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga tuy ngắn ngủi nhưng đã làm nổi bật vẻ đẹp phẩm chất của hai nhân vật: Lục Vân Tiên trượng nghĩa khinh tài, Kiều Nguyệt Nga thì nết na thùy mị. Hai nhân vật đại diện cho lý tưởng của nhân dân ta. Đồng thời qua các nhân vật này cũng gửi gắm những thông điệp sâu sắc của nhà thơ.
Phân tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga – Mẫu 8
Nguyễn Đình Chiểu là một con người có nhân cách lớn, một tấm gương về sự học, tinh thần vươn lên và tinh thần yêu nước mạnh mẽ. Người đời biết đến ông không chỉ là một bậc danh nho tinh thông y thuật mà ông còn nổi tiếng là một nhà thơ, nhà văn lớn, tiêu biểu của nền văn học trung đại Việt Nam, nửa cuối thế kỉ XIX. Những áng văn chương của cụ đồ Chiểu luôn nhằm hướng tới truyền bá đạo lý làm người, tình yêu nước và ý chí chiến đấu chống giặc ngoại xâm mạnh mẽ. Và một trong các tác phẩm gây được tiếng vang lớn nhất trong sự nghiệp cầm bút ấy của ông là “Truyện Lục Vân Tiên” – một tác phẩm truyện thơ Nôm rất độc đáo, rất điển hình hướng tới đạo lý làm người: hành hiệp trượng nghĩa, cứu khổ phò nguy, hướng tới lẽ công bằng và tình yêu thương giữa con người với con người. Đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” là đoạn trích hay, tập trung nổi bật được tư tưởng, đạo lí mà nhà thơ muốn gửi gắm.
Đoạn trích nằm ở phần đầu của truyện. Tác phẩm được viết vào khoảng đầu những năm 50 của thế kỉ XIX, dài hơn hai nghìn câu thơ, theo thể lục bát, kết cấu theo kiểu truyền thống của loại truyện phương Đông, theo lối chương hồi, xoay quanh diễn biến cuộc đời nhân vật chính. Đây là truyện thơ Nôm mang tính chất là truyện để kể hơn là để đọc, để xem. Vì thế, truyện được lưu truyền rộng rãi dưới hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian như “kể thơ”, “nói thơ, và “hát thơ”. Đoạn trích thể hiện khát vọng hành đạo giúp đời của tác giả và khắc họa những phẩm chất đẹp đẽ của hai nhân vật: Chàng thư sinh Lục Vân Tiên – người mang trong mình tràn đầy lý tưởng của tuổi trẻ nhiệt huyết, trọng nghĩa khinh tài, cán cân của công lý, sẵn sàng ra tay trừng trị cái xấu, cái ác, bênh vực cái đẹp, cái yếu đuối, bất hạnh; Còn Kiều Nguyệt Nga lại là một tiểu thư khuê các, dịu dàng, xinh đẹp, hiền hậu, nết na, ân tình.
Trước hết là hình tượng nhân vật Lục Vân Tiên – một nhân vật lý tưởng của cái đẹp: dũng cảm, tài ba, đầy khí phách. Trên đường trở về quê nhà, Vân Tiên thấy bọn cướp Phong Lai đang giở trò cướp bóc, làm hại dân lành, chàng liền ra tay tương trợ đánh tan cái xấu, cái ác. Hình ảnh Lục Vân Tiên hành hiệp trượng nghĩa được tái hiện rất cụ thể trong hành động và lời nói khi chiến đấu với bọn giặc:
Vân Tiên ghé lại bên đàng
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô
Kêu rằng: “bớ đảng hung hồ,
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”
Hành động đánh cướp trước hết bộc lộ tính cách anh hùng, tài năng và tấm lòng vị nghĩa của Lục Vân Tiên. Một mình chàng, tay không tấc sắt dám đương đầu với cả một toán giặc cỏ với đầy đủ các loại vũ khí gươm giáo sáng quắc trong tay. Hành động “bẻ cây làm gậy” của chàng là một hành động dũng cảm, xuất phát từ cái đức của một con người “vị nghĩa vong thân” (vì việc nghĩa mà không tiếc thân mình). Tuy một mình nhưng chàng vẫn hiện lên vẫn rất uy dũng, mạnh mẽ, hào hiệp xông thẳng vào trận đánh, vừa tiến tới lại vừa thét lên những lời nói đầy giận dữ, quả quyết kết tội bọn giặc”bớ đảng hung đồ”, “chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”. Kết quả, bọn cướp sợ hãi thất kinh mà “vỡ tan” như đàn ong vỡ tổ. Tên cướp cầm đầu là Phong Lai thì chẳng kịp trở tay, bị ăn ngay một gậy chí mạng sống không được, chết cũng không xong.
Vân Tiên tả đột hữu xông
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang.
Lâu la bốn phía vỡ tan
Đều quang gươm giáo tìm đàng chạy ngay
Phong Lai trở chẳng kịp tay
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.
Như vậy, với nghệ thuật so sánh tương phản, tác giả đã tái hiện không khí cuộc đấu tranh giữa Lục Vân Tiên với bọn cướp Phong Lai hết sức cam go, quyết liệt. Qua đó chúng ta thấy Lục Vân Tiên hiện lên là một người anh hùng dũng cảm, không sợ hiểm nguy và thấy việc nghĩa thì ra tay giúp đỡ. Phải chăng đó là cái đức, cái tài và cái dũng của bậc anh hùng trong con người Lục Vân Tiên, đã chiến thắng được thế lực bạo bạo, dù chúng rất hung bạo, dữ dằn. Đó cũng chính là giá trị nhân đạo, nhân sinh sâu sắc mà cụ đồ Chiểu muốn gửi gắm nơi người đọc.
Sau khi dẹp tan bọn giặc cỏ, thái độ cư xử của chàng trai họ Lục đối với Kiều Nguyệt Nga đã bộc lộ tư cách của con người: chính trực, hào hiệp, khiêm tốn, trọng nghĩa khinh tài, từ tâm nhân hậu và rất mực văn hóa.Ban đầu chàng bộc lộ sự quan tâm bằng cách hỏi han ân cần, chu đáo: “Hỏi: “ai than khóc ở trong xe này?” ; “Tiểu thư con gái nhà ai/ Đi đâu nên nỗi mang tai bất kì?/ Chẳng hay tên họ là chi? Khuê môn phận gái việc gì tới đây?…”. Thấy hai cô gái còn chưa hết bàng hoàng, hoảng hốt, Vân Tiên “động lòng” an ủi, trấn an tinh thần Kiều Nguyệt Nga qua lời nói: “Đáp rằng: “Ta đã trừ dòng lâu la”. Khi biết Kiều Nguyệt Nga định xuống xe lạy tạ, chàng nhất mực từ chối vì giữ lễ tiết:
“Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái, ta là phận trai?”
Đặc biệt chàng còn khiêm tốn không chịu nhận vật trả ơn: “Làm ơn há dễ trông người trả ơn”. Cuối cùng, hai người cùng xướng họa với nhau một bài thơ rồi nhẹ nhàng từ biệt ra đi, không vấn vương, nuối tiếc. Đến đây, chúng ta thấy Lục Vân Tiên là con người rất mực tâm lý, có nghĩa khí, giữ đúng phép tắc của nho gia, coi thường tiền tài, vật chất. Phải chăng, đối với chàng làm việc nghĩa như là bổn phận, trách nhiệm và vốn lẽ tự nhiên phải làm. Vì thế, ở cuối đoạn trích, có hai câu thơ đã nêu bật được quan niệm về người anh hùng của tác giả:
“Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”
Người anh hùng là người lấy việc nghĩa khí lên làm đầu. Nếu thấy việc nghĩa mà không làm thì không phải là người anh hùng. Đây cũng chính là quan niệm về người anh hùng của tác giả. Qua đó, tác giả thay mặt nhân dân thể hiện niềm ước mong: trong thời buổi loạn lạc, nhiễu nhương, hỗn loạn, cái xấu cái ác hoành hoành những con người tài đức, dám ra tay cứu nạn giúp đời như Lục Vân Tiên thật đáng quý, đáng trân trọng biết bao.
Tiếp đến là hình tượng nhân vật Kiều Nguyệt Nga, nàng cũng là nhân vật chính và là nhân vật lí tưởng trong tác phẩm. Với tư cách là một người chịu hàm ơn, Kiều Nguyệt Nga đã bộc lộ rất nhiều những phẩm chất tốt đẹp của người con gái: Cách xưng hô của nàng với Lục Vân Tiên, gọi chàng là “quân tử”, tự xưng mình là “tiện thiếp”. Điều đó, bộc lộ cách ứng xử của một người phụ nữ thùy mị, nết na, khiêm nhường, đầy sự tôn trọng đối với người đang giao tiếp. Tiếp đến, nàng còn hiện lên là người phụ nữ khuôn phép, có học thức của một tiểu thư khuê các, gia giáo:
“Làm con đâu dám cãi cha
Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành”
Cuối cùng, với tư cách là người chịu ơn, nàng cư xử đúng mực, biết trước biết sau, biết ơn với người đã cứu giúp mình:
Trước xe quân tử tạm ngồi
Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa
Với nàng, Lục Vân Tiên không chỉ cứu mạng mà còn cứu cả cuộc đời trinh bạch trong trắng của nàng: “Lâm nguy chẳng gặp giải nguy/ Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi”. Vì thế nàng tìm mọi cách để thuyết phục Lục Vân Tiên nhận sự tạ ơn của mình: “Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi”. Cuối cùng, nàng đã cảm mến Lục Vân Tiên mà họa vẽ bức chân dung của mình rồi đưa cho chàng, tự nguyện gắn bó cuộc đời của mình với Lục Vân Tiên, dám liều mình để giữ trọn ân tình, thủy chung với chàng. Đến đây, chúng ta nhận ra một mô típ quen thuộc ở truyện thơ Nôm truyền thống: chàng trai tài giỏi, cứu cô gái khỏi tình huống hiểm nghèo, rồi đi từ ân nghĩa đến tình yêu…
Xét về mặt nghệ thuật, thông qua việc phân tích ở trên, chúng ta thấy được nhân vật trong đoạn trích này chủ yếu được miêu tả qua hành động, cử chỉ, lời nói, ít khắc họa ngoại hình, càng ít đi sâu vào diễn tả nội tâm, rất gần với văn học dân gian; ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị, gần với lời ăn tiếng nói hằng ngày và mang màu sắc Nam Bộ, phù hợp với ngôn ngữ người kể chuyện; lời thơ với giọng điệu kể chuyện linh hoạt, khéo léo, phù hợp với diễn biến tình tiết và tính cách nhân vật.
Tóm lại, đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” là một đoạn trích hay, độc đáo, có thể coi đây là một bản trường ca ca ngợi chính nghĩa và những đạo đức đáng quý, tốt đẹp ở đời. Thể hiện niềm ước mơ của tác giả, của nhân dân về khát vọng hành đạo, giúp đời, hướng tới lẽ công bằng, cái thiện, cái đẹp sẽ luôn chiến thắng cái xấu, cái ác…
Phân tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga – Mẫu 9
Lục Vân Tiên là một nhân vật lí tưởng, hội tụ đầy đủ những chuẩn mực của một người anh hùng nghĩa hiệp, tuổi trẻ, tài cao, lòng đầy khát khao được đem công danh, tài năng cứu người, giúp đời. Đoạn trích “ Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” đã phần nào thể hiện được tính cách của Lục Vân Tiên Trên đường đi thi, gặp bọn cướp Phong Lai hoành hành Lục Vân Tiên xông vào đánh cướp để cứu dân. Đây là một việc nghĩa mà chàng không thể không làm với mục đích cao đẹp, xuất phát từ tấm lòng tự nguyện.
Kêu rằng: “Bớ đảng hung đồ,
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân.”
Chỉ một mình, lại không có vũ khí, chàng đã dám bẻ gậy xông vào bọn cướp đông người giáo gươm đầy đủ. Hình ảnh Lục Vân Tiên xông xáo tung hoành được nhà thơ miêu tả thật đẹp sánh ngang với hình ảnh Triệu Tử Long – một dũng tướng thời Tam Quốc:
Vân Tiên tả đột hữu xung,
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang.
Lâu la bốn phía vỡ tan…
Với võ nghệ cao cường, Lục Vân Tiên đã đánh tan bọn cướp và tiêu diệt tên đầu đảng Phong Lai. Hành động của chàng còn tỏ rõ đức độ của người nghĩa hiệp: Giữa đường thấy sự bất bình chẳng tha. Không sợ nguy hiểm, Vân Tiên sẵn sàng vì nghĩa trừ hại cho dân.
Đánh xong bọn cướp thấy hai cô gái còn chưa hết hãi hùng Vân Tiên đã ân cần hỏi han, an ủi họ. Hành động của chàng thật đàng hoàng, chững chạc. Tuy có phần câu nệ nhưng vẫn là phong độ giữ lễ của một con người có văn hóa trong khi ứng xử với hai người con gái: “Khoan khoan ngồi đó chớ ra. Nàng là phận gái ta là phận trai”. Vân Tiên đã từ chối cái lạy trả ơn, từ chối lời mời đền đáp, không nhận trâm vàng trao tặng mà chỉ nhận lời cùng Nguyệt Nga làm thơ xướng họa. Câu trả lời “Làm ơn há dễ trông người trả ơn” và đặc biệt là câu nói của Vân Tiên: “Nhớ câu kiến nghĩa bất vi. Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”, cho thấy một người anh hùng lí tưởng của Nguyễn Đình Chiểu là thấy việc nghĩa thì tự nguyện làm, và đã làm việc nghĩa thì không cần trả ơn. Đó cũng là quan niệm của nhân dân ta: Làm phúc không cần được phúc. Lục Vân Tiên, qua đoạn trích, không chỉ là một chàng trai tài ba, dũng cảm mà còn là một con người trọng nghĩa khinh tài.
Hình ảnh Vân Tiên đánh cướp được khắc họa thần tình. Cử chỉ, hành động, ngôn ngữ và cách ứng xử của chàng rất đẹp, mang phong thái người anh hùng, người tráng sĩ ngày xưa. Chúng ta không thể nào quên một Vân Tiên quả cảm, nhân hậu, chí khí của Cụ Đồ Nguyễn Đình Chiểu.
Phân tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga – Mẫu 10
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ yêu nước Nam Bộ. Ông sống trong thời kỳ loạn lạc, xã hội rối ren, chế độ phong kiến Việt Nam suy tàn, bọn vua quan nhà Nguyễn thối nát. Xã hội đen tối, đau thương. Ngoài những thơ văn yêu nước, Nguyễn Đình Chiểu nổi tiếng với truyện thư Truyện Lục Vân Tiên dài 2082 câu thơ lục bát.
Truyện thơ đề cao trung, hiếu, tiết, hạnh theo quan niệm đạo lí của nhân dân ta. Đạo làm tôi, đạo làm con, tình bằng hữu, nghĩa vợ chồng… được nhà thơ hết lời ca ngợi:
Trai thời trang hiếu làm đầu,
Gái thời tiết hạnh là câu trau mình.
Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga là hai nhân vật trung tâm của truyện thơ sáng ngời trung hiếu, tiết hạnh.
Đoạn thơ Lục Vân Tiên đánh cướp là một trong những đoạn thơ hay nhất của tác phẩm, tiêu biểu cho bút pháp tự sự của Nguyễn Đình Chiểu. Nhân vật Lục Vân Tiên được khắc họa thành mẫu người anh hùng lí tưởng tuyệt đẹp: giàu lòng thương người, dũng cảm và vị nghĩa cao cả.
Lòng thương người là đức hạnh tốt đẹp nhất của Lục Vân Tiên. Từ giã thầy, chàng xuống núi, hăm hở về kinh đô ứng thí. Lộ trình đầy gian nan. Giữa đường, Lục Vân Tiên bất ngờ gặp nhân dân dắt díu nhau chạy trốn, tiếng kêu khóc vang lên thảm thiết. Chàng đã ân cần hỏi han sự tình đầu đuôi và quyết ra tay đánh cướp để cứu dân lành thoát khỏi cảnh đau thương, nước sôi lửa bỏng:
Tôi xin ra sức anh hào,
Cứu người cho khỏi lao đao buổi này!
Căm giận lũ bất lương, Lục Vân Tiên sôi sục lên án hành động dã man của chúng. Chàng đã đứng về phía nhân dân, quyết bảo vệ dân:
Kêu rằng: “Bớ đảng hung đồ,
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”.
Đạo lý của nhân dân ta rất đẹp “Thương người như thể thương thân”. Lục Vân Tiên đã hành động vì tình thương bao la ấy.
Tình thương người đã nâng cao chí khí và lòng dũng cảm cho người thư sinh họ Lục. Lũ cướp rất đông và đáng sợ, gươm giáo sáng ngời. Tướng cướp Phong Lai “mặt đỏ phừng phừng” đầy sát khí. Hắn dữ tợn và có sức khoẻ muôn người khôn địch! Giữa vòng vây của lũ cướp, không một tấc sắt trong tay, một mình với cành cây làm gậy, Lục Vân Tiên đã dũng cảm đánh cướp. Đột kích bên tả, xung phong bên hữu, chàng tung hoành giữa bọn cướp. Chúng bị đánh tơi bời. Bọn lâu la đã khiếp đảm quăng gươm giáo bỏ chạy tan tác. Tướng cướp Phong Lai bị tiêu diệt Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã so sánh Lục Vân Tiên đánh cướp với chiến công của hổ tướng Triệu Tử Long phá vòng vây Đương Giang thời Tam quốc để ca ngợi tinh thần quả cảm của người anh hùng vị nghĩa:
Vân Tiên tả đột hữu xông,
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Giang.
Lâu la bốn phía vỡ tung,
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay.
Phong Lai trở chẳng kịp tay,
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.
Giọng thơ hùng tráng vang lên diễn tả trận đánh cướp đầy kịch tính hấp dẫn. Lục Vân Tiên là tấm gương của một anh hùng vị nghĩa cao đẹp.
Đánh tan lũ cướp sơn đài, Lục Vân Tiên đã giải thoát cho Kiều Nguyệt Nga và Kim Liên. Cuộc kỳ ngộ giữa người đẹp và tráng anh hùng diễn ra cảm động và đầy tình người. Kiều Nguyệt Nga muốn mời chàng hiệp sĩ qua miền Hà Khê để cha nàng “báo đức thù công”.
Ngẫm câu báo đức thù công,
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi.
Nhưng Vân Tiên “nghe nói liền cười”. Một nụ cười rất tươi, biểu lộ một tâm hồn cao cả vô tư, hào hiệp, khảng khái. Chàng xem việc đánh cướp của mình là một hành động nhân nghĩa. Người tráng sĩ phải ra tay cứu nhân độ thế, diệt trừ cái ác, chở che bênh vực người lầm than, bị áp bức. Nếu thấy việc nghĩa mà không làm thì còn đâu đáng mặt anh hùng nữa?
Nhớ câu kiến nghĩa bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.
Nguyễn Đình Chiểu đã khắc họa nhân vật Lục Vân Tiên mang cốt cách tráng sĩ thời loạn, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, trọng nghĩa khinh tài, sống và hành động theo phương châm: “Lộ kiến bất bình, bạt đao tương trợ”. Vân Tiên cũng như người anh hùng Từ Hải trong Truyện Kiều.
Anh hùng tiếng đã gọi rằng,
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha!
Hình ảnh Vân Tiên đánh cướp được khắc họa thần tình, cử chỉ, hành động, ngôn ngữ và cách ứng xử của chàng rất đẹp, mang phong thái người anh hùng, người tráng sĩ ngày xưa. Tuy nhiên hình tượng này rất chân thật vì lòng thương người, chí quả cảm, tinh thần vì nghĩa của Vân Tiên đậm đà màu sắc đạo lí nhân dân ta.
Đã gần hai thế kỷ trôi qua, nhân vật Lục Vân Tiên được nhân dân ta yêu mến, hâm mộ. Tinh thần chiến đấu kiên cường của đồng bào miền Nam trong cuộc đấu tranh chống phong kiến và đế quốc trong hơn thế kỷ qua đã làm cho ta cảm nhận sâu sắc vẻ đẹp lí tưởng của người anh hùng Lục Vân Tiên. Tấm gương sáng chói ấy mãi mãi là một minh chứng hùng hồn về sức mạnh thẩm mĩ của thi ca, của truyện thơ Truyện Lục Vân Tiên mà nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã để lại cho đời.
Phân tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga – Mẫu 11
2082 câu lục bát của truyện thơ Lục Vân Tiên do nhà nho mù lòa Nguyễn Đình Chiểu sáng tác có vị trí cao trong nền văn học Nam Bộ nói riêng và nền văn học dân tộc nói chung. Đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga ”để lại nhiều ấn tượng đẹp bởi hình ảnh Lục Vân Tiên -người anh hùng chiến đấu vì nghĩa, văn võ song toàn.
Đoạn trích là một trong những đoạn thơ hay nhất của tác phẩm, tiêu biểu cho bút pháp tự sư của Nguyễn Đình Chiểu. Nhân vật Lục Vân Tiên được khắc hoạ thành mẫu người anh hùng lý tưởng tuyệt đẹp: giàu lòng thương người, dũng cảm và nghĩa hiệp.
Bản tính anh hùng nghĩa hiệp là đức tính tốt đẹp nhất của Vân Tiên.Từ giã thầy chàng hăm hở xuống núi về kinh đô ứng thí.Trên lộ trình gian nan ấy chàng bất ngờ gặp cảnh dân dắt díu nhau chạy loạn, kêu khóc thảm thương, chàng hứa:
Tôi xin ra sức anh hào
Cứu người cho khỏi lao đao buổi này.
Căm giận lũ bất lương, Vân Tiên sôi sục lên án hành động dã man của chúng. Chàng đứng về phía nhân dân, phía người bị nạn, bẻ cây làm gậy xông thẳng vào bọn cướp Phong Lai hung dữ:
Kêu rằng: Bớ đảng hung đồ
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân.
Đạo lý thương người như thể thương thân, thấm nhuần và tỏa rạng trong hành động của Vân Tiên.Tình thương người đã nâng cao chí khí và lòng dũng cảm cho chàng thư sinh họ Lục. Bọn cướp đông đặc, gươm giáo sáng ngời, bừng bừng sát khí.Còn Vân Tiên chỉ có một vũ khí thô sơ “cây gậy bên đàng ”.Thế mà trong cuộc chiến không cân sức ấy:
Vân Tiên tả đột hữu xông
Khác nào Triệu Tử mở vòng Đương Dương.
Không tả tỉ mỉ trận chiến, chỉ bằng mấy dòng thơ ngắn gọn mà đặc sắc cùng nghệ thuật so sánh, tác giả đã làm nổi bật hình ảnh một dũng tướng đánh nhanh,kín võ, sánh ngang Triệu Tử Long thời Tam Quốc trong trận phá vây quân Tào bảo vệ ấu chúa.Việc làm của Vân Tiên cao đẹp hơn bởi nó xuất phát từ lòng nhân từ, từ tư tưởng cứu dân diệt ác nên giản dị, vô tư mà trong sáng, cao đẹp vô cùng.Cuộc chiến của chàng giống hệt thuở xưa Thạch Sanh diệt đại bàng cứu nàng công chúa. Sức mạnh của chàng là kết tinh sức mạnh của nhân dân, của điều thiện nên nó vô địch:
Lâu la bốn phía vỡ tan
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay
Phong Lai trở chẳng kịp tay
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.
Lời thơ chân chất, thô mộc song hồn thơ thì chan chứa dạt dào.Nó nêu bật một chân lý:kẻ bất nhân độc ác thì thảm bại,người anh hùng làm việc nghĩa sẽ chiến thắng.
Tự nguyện dấn thân vào nguy hiểm, chiến đấu hết mình, thắng lợi rực rỡ. Tất cả đều vì nhân nghĩa, nên sau thắng lợi Vân Tiên không hề kiêu ngạo.Trái lại chàng thật khiêm nhường, chính trực, chân thành mà dung dị. Cuộc kỳ ngộ giữa người đẹp và trang anh hùng diễn ra thật cảm động.Nguyệt Nga tha thiết muốn mời chàng hiệp sĩ qua miền Hà Khê để nàng báo đức thù công, “ Vân Tiên nghe nói liền cười” nụ cười đáng yêu đáng kính của một tâm hồn vô tư hào hiệp.Chàng cười bởi chàng quan niệm:
Làm ơn há dễ trong người trả ơn
Nay đà rõ đặng nguồn cơn
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì.
Đúng là giọng nói, cách nói của chàng trai Nam Bộ nôm na, giản dị mà chất phác vô cùng.Đằng sau những lời giản dị ấy là ngọt ngào, thơm thảo một quan niệm nhân sinh, một tấm lòng nhân ái, hào hiệp.Với chàng, ơn nghĩa là việc thông thường của người sống có văn hoá, đang theo đòi kinh sử, hướng về nghĩa khí, lấy chữ nhân làm động cơ, làm mục đích cho mọi hành động. Chàng hành động vì lòng nhân, vì nghĩa lớn, trừ kẻ ác, bảo vệ người lương thiện.Chàng quan niệm:
Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.
Lời nói chắc nịch vừa để đối chứng, phê phán những kẻ tầm thường vừa đẻ khẳng định việc làm đúng đắn, tất yếu thuộc căn cốt, gốc rễ trong lẽ sống của mình.Đó là lẽ sống của những hiền nhân quân tử thời xưa, của con người chân chính ngày nay.Lời nói và nhân cách của chàng giống người anh hùng Từ Hải trong “Truyện Kiều” với quan niệm:
Anh hùng tiếng đã gọi rằng
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha.
(Nguyễn Du )
Dưới ngòi bút của Nguyễn Đình Chiểu, nhân vật Lục Vân Tiên mang cốt cách của tráng sĩ thời loạn, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, trọng nghĩa khinh tài, sống và hành động theo phương châm: “Lộ kiến bất bình, bạt đao tương trợ ”.Dẫu còn bị ảnh hưởng bởi quan niệm phong kiến “nam nữ thụ thụ bất thân” song ngôn ngữ, cử chỉ, hành động của chàng rất đẹp, rất anh hùng.Lòng thương người, chí quả cảm và tinh thần vị nghĩa của chàng đậm màu sắc đạo lý của dân tộc ta.
Bằng giọng thơ phóng khoáng, chân mộc và ngôn từ bình dị, đoạn trích đã hoàn thiện một cách xuất sắc hình ảnh chàng Lục Vân Tiên anh hùng, nghĩa hiệp. Đọc thơ càng thêm trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của nhà nho yêu nước, yêu đạo lý mà người dân Nam Bộ vẫn trìu mến gọi là Đồ Chiểu.
Phân tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga – Mẫu 12
Truyện Lục Vân Tiên là tác phẩm nổi bật nhất của Nguyễn Đình Chiểu, tác phẩm này được đông đảo bà con yêu mến vì những đạo lý, những tư tưởng giáo huấn trong tác phẩm này. Ngay từ những câu mở đầu tác phẩm ngày Nguyễn Đình Chiểu đã viết: “Trai thời trung hiếu làm đầu/ Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình”. Và chỉ trong đoạn trích ngắn “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” ông đã thể hiện đầy đủ, rõ ràng quan điểm đó của mình.
Trong tác phẩm gồm hai nhân vật chính là Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga. Hai nhân vật gặp nhau trong hoàn cảnh, Kiều Nguyệt Nga gặp phải bọn cướp giữa đường, Lục Vân Tiên thấy chuyện bất bình đã ra tay cứu giúp. Hoàn cảnh gặp gỡ đặc biệt này đã giúp các nhân vật bộc lộ rõ tính cách, phẩm chất của mình.
Trước hết về nhân vật Lục Vân Tiên, anh là một người có tinh thần trượng nghĩa. Ngay khi gặp người bị nạn, anh không trần trừ, suy nghĩ mà lập tức, sẵn sàng xả thân đánh cướp: “Vân Tiên ghé lại bên đàng/ Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô”. Chàng chỉ có một mình, còn lũ cướp lại hết sức đông đảo, nhưng không vì thế mà Vân Tiên nhụt ý chí. Ở đoạn thơ này, Nguyễn Đình Chiểu đã sử dụng hàng loạt từ Hán Việt, tạo không khí hào hùng áp đảo kẻ thù.
Các từ ngữ rất giàu giá trị tạo hình “tả đột hữu xông” cho thấy dáng vẻ oai phong, động tác nhanh nhẹn, chính xác của Vân Tiên khi chiến đấu với bọn cướp. Bằng sức mạnh phi thường, lòng dũng cảm và võ nghệ cao cường Vân tiên đã phá tan bọn lâu la, làm cho chúng chạy toán loạn tứ phía.
Sau khi phá tan lũ cướp, Vân Tiên rất cẩn thận và chu đáo, đến hỏi han người bị nạn bằng những lời lẽ khiêm nhường. Qua những lời hỏi han, hành động sau đó của Lục Vân Tiên còn thấy chàng là người biết trọng lễ nghĩa:
Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái ta là phận trai
Theo lễ giáo phong kiến con trai và con gái thường không được trực tiếp gặp nhau, hơn nữa đây là một người lạ, thì việc ấy càng phải thận trọng hơn. Thái độ đó của Vân Tiên cho thấy chàng là người hết sức giữ gìn lễ nghĩa, và cũng là vì nghĩ cho người con gái xa lạ. Đó là nét đẹp trong văn hóa ứng xử của một đấng quân tử.
Không chỉ vậy, Vân Tiên còn mang trong mình tinh thần hào hiệp của một bậc anh hùng. Nghe những lời giãi bày của Kiều Nguyệt Nga, mong muốn của nàng muốn báo đáp mình, Vân Tiên chỉ cười lớn, đó là tiếng cười vô tư, trong sáng. Sự vô tư, không tính toán ấy được thể hiện rõ nhất trong câu:
Nhớ câu kiến nghĩa bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.
Đó là quan niệm về người anh hùng, làm việc nghĩa cứu giúp mọi người không màng bổng lổng, nếu chỉ suy nghĩ về những lợi ích mình được hưởng thì không còn là một người anh hùng thực thụ nữa. Quan niệm này cũng trở đi trở lại rất nhiều lần trong tác phẩm của ông như: Dốc lòng nhơn nghĩa há chờ trả ơn. Đây là một truyền thống đạo lí tốt đẹp, mà tác giả muốn truyền tải đến bạn đọc.
Lục Vân Tiên là hình tượng hội tụ đầy đủ vẻ đẹp của người anh dùng, vừa quả cảm, hào hiệp vừa nhân hậu. Đồng thời với nhân vật này, tác giả cũng thể hiện quan điểm về một người anh hùng phải là người có tài trí, sức mạnh và sẵn sàng hành động vì nghĩa lớn.
Ngoài nhân vật Lục Vân Tiên ta cũng không thể không nhắc đến Kiều Nguyệt Nga. Nàng là một người con gái nề nếp, có học thức. Nguyệt Nga vốn là khuê môn, lệnh các, xuất thân từ con nhà quyền quý. Nhưng không vì thế mà nàng tỏ ra kiêu ngạo, hợm hĩnh.
Đứng trước ân nhân của mình nàng hết sức khiêm nhường, cách nói năng kiêm xưng, gọi Vân Tiên là “quân tử”, tự gọi mình là “tiện thiếp”, hành động nhún mình “lạy, thưa”. Qua đó cho thấy nàng là người con gái có học thức, thông minh, mực thước trong lời ăn tiếng nói. Không chỉ vậy nàng còn sống hết sức khuôn phép theo lễ nghĩa phong kiến. Theo lời cha mẹ, nàng đến tận miền Hà Khê để định bề nghi gia nghi thất không quản đường sá xa xôi, gặp biết bao hiểm nguy, vất vả. Nàng quả là người con có hiếu.
Là một người có học, nên Nguyệt Nga hiểu những quy tắc lễ nghĩa phong kiến, nhưng nàng vẫn muốn ra khỏi xe để đa tạ ơn cứu mạng của Lục Vân Tiên. Cho thấy tấm lòng biết ơn sâu sắc của nàng. Đáng quý hơn cả là nàng ý thức sâu sắc rằng không bạc vàng nào có thể xứng với ân nghĩa kia, qua đó cho nàng là người rất coi trọng tình nghĩa. Kiều Nguyệt Nga là kết tinh cho vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ truyền thống. Nàng không chỉ gia giáo, nết na, có học thức mà còn rất đằm thắm, nghĩa tình.
Tác giả sử dụng thể thơ lục bát thuần dân tộc, với ngôn ngữ giản dị mộc mạc, dễ đi vào lòng người nhưng vẫn hết sức sâu sắc, truyền tải những thông điệp ý nghĩa. Xây dựng tuyến nhân vật thiện ác rõ ràng, qua đó cũng thể hiện quan niệm của ông về con người.
Đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga xây dựng thành công hai nhân vật đại diện cho những vẻ đẹp chuẩn mực của xã hội. Tác phẩm còn thể hiện khát vọng hành đạo giúp đời của ông. Tất cả vẻ đẹp nhân vật, những khát vọng ông gửi gắm đều phù hợp với phong cách sống, với mơ ước giản dị mà đẹp đẽ của nhân dân ta.
Phân tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga – Mẫu 13
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ yêu nước sống ở thế kỉ thứ XIX, cuộc đời ông gặp nhiều đau thương bất hạnh trong hoàn cảnh xã hội đương thời nhiều biến đổi lớn lao. Trong những thử thách ấy, sự nghiệp thơ ca của Nguyễn Đình Chiểu lại là những dấu ấn tinh thần lớn lao của thời đại và xã hội ấy trong đó tác phẩm “Lục Vân Tiên” là một truyện thơ Nôm điển hình.
Hình ảnh người anh hùng Lục Vân Tiên là nhân vật trung tâm của truyện và được thể hiện khí phách nhất có lẽ là ở đoạn trích: “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga”. Từ biệt tôn sư về đi thi, giữa đường lại gặp phải chuyện bất bình, Lục Vân Tiên không ngại ra tay tương trợ:
Vân Tiên ghé lại bên đàng,
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô.
Kêu rằng: “Bớ lũ hung đồ,
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”.
Sự việc diễn ra thật bất ngờ, nhanh chóng bởi Vân Tiên chỉ là người qua đường thấy bất bình thì chẳng tha. Chàng dường như không kịp suy nghĩ, không lo đến an nguy của bản thân mà cứ thế xông vào dẹp tan lũ cướp cứu người. Chàng không hề biết trong kiệu là nàng Kiều Nguyệt Nga xinh đẹp con quan, chàng chỉ coi đó là người dân bình thường, không toan tính thiệt hơn, làm việc tốt xuất phát từ đáy lòng. Trước quân thù đông đảo cùng với một tên tướng hung dữ “mặt đỏ phừng phừng” chàng vẫn không hề nao núng:
Vân Tiên tả đột hữu xung,
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dương.
Lâu la bốn phía vỡ tan,
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay.
Ta thấy hiện lên hình ảnh một người anh hùng đội trời đạp đất có sức mạnh và tài năng hơn người được so sánh như Triệu Tử Long- một vị anh hùng tiêu sái dũng mãnh đang oai hùng phá vòng Đương Dương. Đúng là khí phách của một chàng trai Nam Bộ cương trực, có phần liều lĩnh, thấy lũ cướp hoành hành hại dân là không giấu nổi sự tức giận của một đấng nam nhi mà ra tay dẹp lũ lâu la. Thật là can trường biết bao. Nguyễn Đình Chiểu quả đã xây dựng ở Lục Vân Tiên một khi chất của vị anh hùng tài đức mà nhân dân ta vẫn hằng mong ước.
Sau khi dẹp xong “lũ kiến chòm ong”, Vân Tiên mới hỏi thăm đến người trong xe. Nghe được tiếng kêu than cảm tạ của cô hầu gái, Vân Tiên có lẽ đã đoán ra người ngồi trên xe là một tiểu thư nên chàng can ngăn:
“Khoan khoan ngồi đó chớ ra,
Nàng là phận gái ta là phận trai.”
Chỉ một câu nói này thôi, chàng thư sinh họ Lục đã để lại ấn tượng về một người đọc sách thánh hiền, hiểu rõ đạo lí nam nữ thụ thụ bất tương thân. Đó cũng tỏ ra là tôn trọng vị tiểu thư khuê các trong xe. Rồi chàng hỏi han sự tình về người con gái chưa thấy mặt kia. Cảm tạ trước ơn cứu mạng cùng sự ngay thẳng của Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga có ý đền ơn cho trọn. Nhưng ngay từ đầu, ra tay dẹp cướp là xuất phát từ lòng hiệp nghĩa, chứ đâu có ý nghĩa mong sẽ được lợi lộc gì, vì vậy Lục Vân Tiên cũng không có ý nhận báo đáp nên đã từ chối thẳng thừng:
Vân Tiên nghe nói liền cười:
“Làm ơn há dễ trông người trả ơn?
Nay đà rõ đặng nguồn cơn,
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì.
Nhớ câu kiến ngãi bất vi,
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.”
Người anh hùng này làm ơn nhưng không mong nhận ơn, chàng coi việc mình làm là chính đáng không so đo thiệt hơn, coi danh vọng tiền bạc chỉ là phù phiếm vô nghĩa. Chàng là sĩ tử nơi thi trường nhưng lại có khí phách hành hiệp trượng nghĩa của những kiếm khách hào hiệp trong thiên hạ. Cái cười sảng khoái của chàng chính là đã thể hiện chí khí của một nam tử hán đại trượng phu đáng khâm phục.
Bằng những từ ngữ hết sức giản dị, cách kể chuyện mộc mạc, dễ hiểu, văn phong trong sáng mang đậm những hiểu biết về đạo nghĩa, hình ảnh người anh hùng Lục Vân Tiên xuất hiện ý như một anh hùng của nhân dân, cho nhân dân và vì nhân dân.
Hình ảnh Vân Tiên đánh cướp được khắc họa thần tình. Cử chỉ, hành động, ngôn ngữ và cách ứng xử của chàng rất đẹp, mang phong thái người anh hùng, người tráng sĩ ngày xưa. Chúng ta không thể nào quên một Vân Tiên quả cảm, nhân hậu, chí khí của Cụ Đồ Nguyễn Đình Chiểu.
Phân tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga – Mẫu 14
Với Nguyễn Đình Chiểu, nhà thơ lớn của đất Đồng Nai, bên cạnh những bài văn tế, bài thơ sục sôi quân cướp nước, chứa chan tình yêu nước thương dân trong cảnh li loạn; là những truyện thơ nêu cao nhân nghĩa, đạo lý làm người. “Truyện Lục Vân Tiên” đã làm cho tên tuổi Đô Chiểu trở thành bất tử. Trung, hiếu, tiết, nghĩa đã chiếu sáng lung linh những vần thơ đẹp:
“Trai thời trung hiếu làm đầu,
Gái thời tiết hạnh là câu trau mình”.
Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga là hai nhân vật trung tâm của truyện thơ sáng ngời trung hiếu, tiết hạnh.
Đoạn thơ “Lục Vân Tiên đánh cướp” là một trong những đoạn thơ hay nhất của tác phẩm, tiêu biểu cho bút pháp tự sự của Nguyễn Đình Chiểu. Nhân vật Lục Vân Tiên được khắc họa thành mẫu người anh hùng, lí tưởng tuyệt đẹp: lòng thương người, dũng cảm và vị nghĩa cao cả.
Lòng thương người là đức hạnh tốt đẹp nhất của Lục Vân Tiên. Từ giã thầy, chàng xuống núi, hăm hở về kinh đô ứng thí. Lộ trình đầy gian nan. Giữa đường, Lục Vân Tiên bất ngờ gặp nhân dân dắt díu nhau chạy trốn, tiếng kêu khóc vang lên thảm thiết. Chàng đã ân cần hỏi han sự tình đầu đuôi và quyết ra tay đánh cướp đê cứu dân lành thoát khỏi cảnh đau thương, nước sôi lửa bỏng:
“Tôi xin ra sức anh hào,
Cứu người cho khỏi lao đao buổi này”
Căm giận lũ bất lương, Lục Vân Tiên sôi sục lên án hành động dã man của chúng. Chàng đã đứng về phía nhân dân, quyết bảo vệ dân:
“Kêu rằng: bớ đảng hung đồ,
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”.
Đạo lý của nhân dân ta rất đẹp “Thương người như thể thương thân”. Lục Vân Tiên đã hành động vì tình thương bao la ấy.
Tình thương người đã làm cao chí khí và lòng dũng cảm cho người thư sinh họ Lục. Lũ cướp rất đông và đáng sợ gươm giáo sáng ngời. Tướng cướp Phong Lai “mặt đỏ phừng phừng” đầy sát khí. Hắn dữ tợn và có sức khoe muôn người khôn địch! Giữa vòng vây của lũ cướp, không một tấc sắt trong tay, một mình với cành cây làm gậy, Lục Vân Tiên đã dũng cảm đánh cướp. Đột kích bên tả, xung phong bên hữu, chàng tung hoành giữa bọn cướp. Chúng bị đánh tơi bời. Bọn lâu la đã khiếp đảm quăng gươm giáo bỏ chạy tan tác. Tướng cướp Phong Lai bị tiêu diệt. Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã so sánh Lục Vân Tiên đánh cướp với chiến công của hổ tướng Triệu Tử Long phá vòng vây Dương Đang thời Tam quốc để ca ngợi tinh thần quả cảm của người anh hùng vị nghĩa:
“Vân Tiên tả đột hữu xông,
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang.
Lâu la bốn phía vỡ tan,
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay.
Phong Lai trở chẳng kịp tay,
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong”.
Giọng thơ hùng tráng vang lên diễn tả trận đánh cướp đầy kịch tính hấp dẫn.
Lục Vân Tiên là một anh hùng vị nghĩa cao đẹp.
Đánh tan lũ cướp sơn đài, Lục Vân Tiên đã giải thoát cho Kiều Nguyệt Nga và Kim Liên. Cuộc kỳ ngộ giữa người đẹp và trang anh hùng diễn ra cảm động và đầy tình người. Kiều Nguyệt Nga muốn mời chàng hiệp sĩ qua miền Hà Khê, để cha nàng “báo đức thù công”:
“Gẫm câu báo đức thù công,
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi”.
Nhưng Vân Tiên “nghe nói liền cười”. Một nụ cười rất tươi, biểu lộ một tâm hồn cao cả: vô tư, hào hiệp, khảng khái. Chàng xem việc đánh cướp của mình là một hành động nhân nghĩa. Người tráng sĩ phải ra tay cứu nhân độ thế, diệt trừ cái ác, chở che bênh vực người lầm than, bị áp bức. Nếu thấy việc nghĩa mà không làm thì còn đâu đáng mặt anh hùng nữa ?
“Nhớ câu kiến nghĩa bất vi,
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”.
Nguyễn Đình Chiểu đã khắc họa nhân vật Lục Vân Tiên trang cốt cách tráng sĩ thời loạn, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, trọng nghĩa khinh tài. Sống và hành động theo phương châm: “Lộ kiến bất bình, bạt đao tương trợ”. Vân Tiên cũng như người anh hùng Từ Hải trong “Truyện Kiều”.
“Anh hùng tiếng đã gọi rằng,
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha!”
Hình ảnh Vân Tiên đánh cướp được khắc họa thần tình. Cử chỉ, hành động, ngôn ngữ và cách ứng xử của chàng rất đẹp, mang phong thái người anh hùng, người tráng sĩ ngày xưa. Tuy nhiên hình tượng này rất chân thật vì lòng thương người, chí quả cảm, tinh thần vị nghĩa của Vân Tiên đậm đà màu sắc đạo lí nhân dân ta. Trên một trăm năm mươi năm qua, nhân vật Lục Vân Tiên được nhân dân ta yêu mến, hâm mộ. Tinh thần chiến đấu kiên cường của đồng bào miền Nam trong cuộc đấu tranh chống phong kiến và đế quốc trong hơn thế kỉ qua đã làm cho ta cảm nhận sâu sắc vẻ đẹp lí tưởng của người anh hùng Lục Vân Tiên. Tấm gương sáng chói ấy mãi mãi là một minh chứng hùng hồn về sức mạnh thẩm mĩ của thi ca, của truyện thơ Lục Vân Tiên mà nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã để lại cho đời.
Tinh thần nghĩa hiệp của Lục Vân Tiên như viên ngọc quý sáng bừng lên dư vị ngòi bút sắc nhọn của Nguyễn Đình Chiểu:
“Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.”
Phân tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga – Mẫu 15
Truyện Lục Vân Tiên là truyện Nôm nổi tiếng của Nguyễn Đình Chiểu, đề cao trung, hiếu, tiết, nghĩa, phê phán thói phản, trắc, đố kị, bất nhân bất nghĩa. Lục Vân Tiên là nhân vật anh hùng, văn võ toàn tài, thể hiện trọn vẹn ước mơ, lí tưởng của tác giả. Đoạn Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga là đoạn kể về chiến công đầu tiên chàng trai họ Lục và cũng là cuộc gặp gỡ kì lạ đầu tiên giữa hai nhân vật chính trong truyện, một hình thức giới thiệu nhân vật thường thấy trong lối tự sự. Đoạn văn đã thể hiện nổi bật khí phách anh hùng và tinh thần nghĩa khí của Lục Vân Tiên, cũng như lòng biết ơn, lưu luyến của Kiều Nguyệt Nga.
Sau khi từ biệt thầy học, lên đường lập nghiệp, Vân Tiên một mình đã qua mấy ngày đường đang tìm nơi trú chân và kết bạn thì gặp phải đám cướp làm cho dân làng tán loạn. Hỏi được nguyên nhân, Vân Tiên khảng khái xin nhận việc diệt cướp:
Tôi xin đem sức anh hào
Cứu người cho khỏi lao đao buổi này
Mặc cho mọi người khuyên can, ngăn cản, Vân Tiên vẫn một lòng xông ra.
Đoạn mở đầu với việc Vân Tiên tìm vũ khí:
Vân Tiên ghé lại bên đàng
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô
Chiếc gậy bằng cây là một vũ khí quá thô sơ trước một đảng cướp khét tiếng: nhưng với vũ khí đó càng chứng tỏ tinh thần anh dũng của Vân Tiên.
Cái cách đánh giặc của chàng cũng công khai, đàng hoàng, quang minh, chính đại như các anh hùng hảo hán: gọi tên, trách mắng. Tên giặc điên cuồng kêu quân vây bủa. Vân Tiên một mình tả đột hữu xung:
Lâu la bốn phía vỡ tan
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay
Phong Lai trở chẳng kịp tay
Bị Tiên một gậy thác rày thương vong.
Trận đánh kết thúc nhanh chóng như trong truyện cổ tích. Người đọc chưa kịp hồi hộp mà quân giặc dường như chỉ chờ Vân Tiên đến là bỏ chạy và chịu chết. Đó không phải trận đánh của vũ lực mà là trận đánh chính nghĩa chống gian tà.
Sau trận diệt cướp là cuộc gặp gỡ với người đẹp gặp nạn. Điều thú vị là cuộc gặp gỡ này chỉ có toàn đối thoại, người hỏi, người đáp ngoài ra không có miêu ta. Hình như Vân Tiên chỉ nắm bắt thông tin bằng kênh nghe: Vân Tiên “Hỏi: AI ở trong xe này?”. Rồi lời đáp và than khóc:
Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái, ta là phận trai
Tiểu thư con gái nhà ai
Đi đâu nên nỗi mang tai bất kì
Chẳng hay tên họ là chi
Khuê môn phận gái việc gì đến đây?
Trước sau chưa hãn dạ này
Hai nàng ai tớ ai thầy nói ra?
Tiếp theo là Nguyệt Nga “Thưa rằng” một thôi (22 dòng). Rồi:
Vân Tiên nghe nói liền cười
Làm ơn há dễ trông người trả ơn
Nay đà rõ đặng nguồn cơn
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì
Nhớ câu kiến nghĩa bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng
Tuy chỉ là hỏi đáp nhưng lời hỏi của Vân Tiên chứng tỏ chàng quang minh chính đại. Lời hỏi dõng dạc: muốn phân định ranh giới nam nữ rõ ràng, muốn biết rõ lí lịch cô gái, nguyên nhân mắc nạn phân biệt thứ bậc tớ thầy. Ngay hành động anh hùng chàng cũng không muốn nhập nhằng với việc làm ơn. Đó là một nhân cách sáng ngời. Nụ cười của chàng mới thiệt hiền lành. Chỉ có hỏi đáp mà tính cách Vân Tiên hiện lên thật đẹp đẽ.
Câu trả lời của Nguyệt Nga cũng thể hiện phẩm chất hiền thục của nàng. Nàng một lòng vâng theo cha mẹ:
Làm con đâu dám cãi cha
Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành
Nàng cảm ơn cứu mạng và một lòng muốn được đền ơn:
Hà khê qua đó cũng gần
Xin theo cùng thiếp đền cho chàng
Gặp đây đương lúc giữa đàng
Của tiền chẳng có, bạc vàng cũng không
Tưởng câu báo đức thù công
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi
Lúc nào nàng cũng muốn làm theo đức hạnh. Chỉ mấy nét mà tác giả đã cho thấy một người nết na, đức hạnh theo quan niệm truyền thống.
Tóm lại đoạn Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga thực chất là đoạn thơ giới thiệu nhân vật. Qua đoạn này, phẩm chất cao đẹp, đức hành của hai nhân vật đã được bộc lộ, làm nền tảng cho tình yêu hai người về sau. Lời văn mộc mạc giản dị mà ý tình sâu nặng càng đọc càng thấy ý nghĩa sâu sắc và chắc nịch. Nhân vật nào cũng sống theo những lời day đạo đức cổ truyền. Lục Vân Tiên thì “Nhớ câu kiến ngãi bất vi, làm người thế ấy cũng phi anh hùng”, theo câu “nam nữ thụ thụ bất thân”: “nàng là phận gái ta là phận trai”, rồi thoe câu “Làm ơn há dễ trông người trả ơn”. Kiều Nguyệt Nga thì theo câu “Làm con đâu dám cãi cha”, lại theo câu “báo đức thù công”. Ta có thể nói trong các truyện Nôm, đây là những nhân vật “cổ điển nhất trong các nhân vật “cổ điển”.
Đăng bởi: THPT Nguyễn Đình Chiểu
Chuyên mục: Tài Liệu Lớp 9